Bài thơ Việt Bắc của tác giả Tố Hữu viết về một sự kiện mang tầm vóc lịch sử; Ông đã sử dụng nhuần nhuyễn các bút pháp ca dao trong sáng tác của mình; thể hiện chất trữ tình cách mạng trong tác phẩm; tình cảm quê hương cách mạng với cán bộ cách mạng như mối tình thiêng liêng.
Cùng tham khảo Soạn bài Việt Bắc của chương trình Ngữ văn 12 tập 1 dưới đây nhé!
Mục lục
Bài thơ Việt Bắc
– Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
– Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
– Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
– Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà…
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Điều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.
I. Tác giả Tố Hữu
– Tố Hữu (1920 – 2002) tên thật là Nguyễn Kim Thành.
– Quê gốc ở làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế.
– Tố Hữu cũng từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị của Việt Nam.
– Ông là một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Đồng thời ông cũng là một cán bộ cách mạng lão thành của Việt Nam.
– Ông được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.
– Các tác phẩm chính:
Từ ấy (1937 – 1946)
Việt Bắc (1947 – 1954)
Gió lộng (1955 – 1961)
Ra trận (1962 – 1971)
Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, thời đại ta (tiểu luận, 1973)
Máu và hoa (1972 – 1977)
Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật (tiểu luận, 1981)
Một tiếng đờn (1978 -1992)
Ta với ta (1992 – 1999)
Nhớ lại một thời (hồi ký, 2000)
II. Giới thiệu về bài thơ Việt Bắc
1. Hoàn cảnh sáng tác
– Chiến thắng Điện Biên Phủ thắng lợi. Tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết. Hòa bình lập lại, miền Bắc bắt tay vào xây dựng một cuộc sống mới. Một trang sử mới của đất nước được mở ra.
– Tháng 10 năm 1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô. Nhân sự kiện có tính lịch sử này, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ.
– Bài thơ có 2 phần: phần đầu tái hiện những kỉ niệm cách mạng kháng chiến, phần sau gợi viễn cảnh tươi sáng của đất nước và ngợi ca công ơn của Đảng, Bác Hồ đối với dân tộc.
2. Bố cục
Gồm 3 phần:
Phần 1: 8 câu thơ đầu: Khung cảnh chia tay đầy lưu luyến.
Phần 2. Từ “Mình đi có nhớ những ngày” đến “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”: Lời của người ở lại.
Phần 3. Còn lại: Lời của người ra đi.
3. Ý nghĩa nhan đề
– Trước hết, Việt Bắc là tên một địa danh cách mạng. Nơi đây được biết đến là cái nôi của cách mạng Việt Nam tiền khởi nghĩa, là cơ quan đầu não của cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
– Đồng thời, Việt Bắc cũng là nơi lưu giữ nhiều kỉ niệm giữa cán bộ cách mạng và đồng bào nơi đây.
=> Nhan đề đã thể hiện được tư tưởng, tình cảm của nhà thơ Tố Hữu muốn gửi gắm.
4. Giá trị Nội dung
Việt Bắc là khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến.
5. Giá trị Nghệ thuật
Thể thơ lục bát, kết cấu đối đáp giao duyên.
Ngôn ngữ đậm sắc thái dân gian, giọng điệu thiết tha sâu lắng…
Sơ đồ tư duy bài Việt Bắc
KIẾN THỨC TRỌNG TÂM – Đọc – hiểu văn bản
I. TÁM CÂU ĐẦU: Những phút giây đầu tiên của buổi chia tay đầy bâng khuâng, lưu luyến giữa kẻ ở người đi
Bốn câu đầu –Lời ướm hỏi của người ở lại
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Câu hỏi tu từ mình về mình có nhớ ta, mình về mình có nhớ không vang lên da diết, như những lời nhắn nhủ dạt dào tình cảm mến thương của người dân Việt Bắc gửi gắm các chiến sĩ cách mạng trong phút chia tay. Cách sử dụng đại từ “mình – ta”: “Mình” chỉ người cán bộ về xuôi, “ta” là những người dân Việt Bắc. Nghĩa tình quân dân dạt dào nồng thắm được tô đậm qua cách sử dụng lối hát giao duyên ngọt ngào, đậm chất dân ca với đại từ “mình – ta”:
Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo ta đề bài thơ.
Mình về có nhớ ta chăng
Ta như lạt buộc khăng khăng nhớ mình.
Mình về ta dặn câu này
“Mười lăm năm”: gợi thời gian – tưởng như rất riêng tư, đằm thắm nhưng thực chất là thời gian kháng chiến, kể từ ngày xây dựng căn cứ ở Việt Bắc, đây là khoảng thời gian gắn bó keo sơn, chung lưng đấu cật của quân dân Việt Bắc; kết hợp cùng “thiết tha mặn nồng” câu thơ chất chứa tình cảm, kỉ niệm thân thương chỉ có người trong cuộc mới hiểu rõ.
Điệp từ “nhớ” gợi nỗi nhớ triền miên, khắc sâu tâm trạng, tấm lòng nhớ thương của người đi – kẻ ở.
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn: gợi không gian núi rừng Việt Bắc; đây là cách diễn đạt, liên tưởng chân phương, hồn nhiên của những người dân miền núi, gửi gắm vào đó lời nhắn nhủ người ra đi đừng bao giờ quên Tây Bắc. Ta cũng có thể hiểu câu thơ khẳng định Việt Bắc là cội nguồn cách mạng, qua đó thể hiện lời nhắn nhủ của Tố Hữu với thế hệ con cháu về truyền thống uống nước nhớ nguồn: hãy luôn ghi nhớ gốc gác con người, hướng về cội nguồn dân tộc.
Bốn câu sau –Tiếng lòng của người về xuôi bâng khuâng lưu luyến
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
“Ai” cách gọi thiết tha trìu mến, “tiếng ai” đầy tha thiết ấy chính là những lời nhắn dạt dào tình cảm của người dân Việt Bắc. “Bên cồn” gợi ra không gian đơn sơ của buổi chia tay.
“Bâng khuâng” nghĩa là cảm xúc nhớ nhung luyến tiếc, buồn vui lẫn lộn (buồn vì xa Việt Bắc cũng như hân hoan khi sắp trở lại Thủ đô). “Bồn chồn” từ láy chỉ cảm xúc day dứt, hồi hộp nôn nao trong lòng bước đi cũng theo dòng cảm xúc mà ngập ngừng, bịn rịn. Câu thơ diễn tả trực tiếp tâm trạng người đi – kẻ ở, tô đậm thêm cảm xúc bịn rịn, không nỡ rời chân của những người sắp ra đi.
“Áo chàm” hình ảnh hoán dụ cho con người núi rừng Việt Bắc lam lũ khó nghèo nhưng đậm đà tình nghĩa.
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay: cách ngắt nhịp 3/3/2 có sự thay đổi so với nhịp thơ đều đặn của thể thơ lục bát diễn tả trọn vẹn giây phút chia tay xao xuyến, ngập ngừng sâu lắng. “Cầm tay” hành động thân tình, gắn bó nói lên tình cảm đoàn kết keo sơn cùng cảm giác lưu luyến, không nỡ rời xa giữa quân và dân Việt Bắc. Không biết nói gì không phải do không có gì để nói mà vì kỉ niệm quá nhiều đến nỗi không biết nói từ đâu cùng cảm xúc trào dâng nghẹn ngào không thốt nên lời. Dấu “…” ở cuối đoạn thơ nhưng một nốt lặng trên khuông nhạc, niềm thương nỗi nhớ vang ra mãi, hoài vào không gian mênh mông của sóng lòng, sóng tình.
II. MƯỜI HAI CÂU TIẾP THEO: Gợi lại những kỉ niệm chiến khu gian khổ nhưng thắm đượm nghĩa tình
Nhớ về thiên nhiên, cuộc sống, tình người Việt Bắc:
Nhớ cảnh thiên nhiên khắc nghiệt: Mưa nguồnsuối lũ, những mây cùng mù.
Nhớ nơi chiến khu đầy khó khăn, gian khổ, nhưng sẵn lòng căm thù giặc sâu sắc: Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai.
Nhớ những sản vật miền rừng: “trám bùi”, “măng mai”.
Nhớ những mái nhà lá đơn sơ nhưng ấm áp tình người, tình cách mạng: Hắt hiu lau xám,
đậm đà lòng son.
Nhớ những năm đầu kháng Nhật với những địa danh lịch sử: Tân Trào, Hồng Thái, mái
đình, cây đa.
Nỗi nhớ ấy được thể hiện bằng những dòng thơ lục bát đậm chất dân gian, những cặp câu thơ lục bát có sự phối hợp thanh điệu hài hòa. Sáu dòng lục bát tạo thành một điệp khúc âm thanh: nó đan dày thành những cấu trúc thanh bằng– trắc– bằng tạo ra nhạc điệu ngân nga trầm bổng nhẹ nhàng, khoan thai.
Hầu hết các câu thơ ngắt theo nhịp 4/4 làm nên những tiểu đối cân xứng, hô ứng về câu trúc, nhạc điệu: Mưa nguồn suối lũ/những mây cùng mù; Miếng cơm chấm muối/ mối thù nặng vai; Trám bùi để rụng/ măng mai để già… Có những cặp tiểu đối khắc ghi những sự kiện, có những cặp tiểu đối vế đầu nói về hiện thực gian khổ, vế còn lại khắc sâu vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Bắc son sắt thủy chung. Người đọc như gặp lại hồn xưa dân tộc trong những trang thơ lục bát của Tố Hữu.
Câu thơ: Mình đi mình lại nhớ mình: “nhớ mình” – tức là nhớ người ở lại nhưng cũng như là nhắc nhở chính mình hãy nhớ về quá khứ gian khổ nhưng thấm đẫm nghĩa tình.
III.TỪ CÂU 25 đến câu 42: Nỗi nhớ những kỉ niệm sinh hoạt nghèo khổ mà ấm áp nghĩa tình
– Nỗi nhớ được so sánh với nhớ người yêu: mãnh liệt và da diết.
– Từ nỗi “nhớ như nhớ người yêu”, Việt Bắc hiện lên với những nét đẹp rất riêng: “trăng đầu núi”, “nắng lưng nương” cùng những tên gọi, địa danh cụ thể.
– Điệp từ “nhớ từng” lặp đi lặp lại làm cho nỗi nhớ thêm ngân vang da diết. Trong kí ức của người đi còn in dấu khoảnh khắc thời gian (trăng đầu núi, nắng chiều lưng nương), từng khoảng không gian của cây, sông, suối (Nhớ từng rừng nứa bờ tre/ Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy). Vẻ đẹp thiên nhiên nên thơ sẽ còn đọng mãi trong nỗi nhớ nhung của người ra đi.
– Tuy nhiên, da diết và đậm sâu hơn cả vẫn là nỗi nhớ về con người, về ân tình Việt Bắc: bình thường, giản dị mà ân nghĩa thủy chung:
Nhớ Việt Bắc là nhớ đến tấm lòng biết sẻ chia: Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
Nhớ cả những người mẹ Việt Bắc với dáng hình địu con lên nương bẻ bắp: Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.
Nhưng cũng là nhớ đến đồng chí, đồng đội với bao gian nan vất vả: Nhớ sao ngày tháng cơ quan/ Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
– Việt Bắc vì thế tuy gian khổ, vất vả nhưng trong kí ức vẫn thanh bình, đẹp đẽ: Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều/ Chày đêm nện cối đều đều suối xa.
Đoạn thơ đủ sức gợi ra thật rõ nét và thấm thía khung cảnh bản làng, tình người, tình quân dân của chiến khu những năm kháng Pháp với tất cả những đường nét, âm thanh, thấm nghĩa đượm tình. Những câu thơ nói về mẹ, về trẻ thơ, về người thương yêu dấu cất lên nghe thật trìu mến.
IV. TỪ CÂU 43 đến câu 52: Bức tranh tứ bình về thiên nhiên, con người Việt Bắc
- Hai dòng đầu là lời khẳng định nỗi nhớ thương da diết và tình cảm thủ chung của người ra đi dành cho quê hương Việt Bắc: Ta về,mình có nhớ ta. Nỗi nhớ đã làm sống dậy trong tâm tưởng hình ảnh thiên nhiên, con người nơi chiến khu cách mạng.
– Nỗi nhớ ở đây mượn nguyên màu sắc ca dao, là sự nối tiếp, là khía cạnh tinh vi trong quan hệ khăng khít: “hoa” – “người”. Quê hương hiện hình trong vẻ đẹp cụ thể: vẻ đẹp tinh tuý của thiên nhiên (hoa) hòa hợp với vẻ đẹp và sức sống của con người.
– Mỗi một hình ảnh “hoa cùng người” như đem lại ấn tượng riêng biệt về nét đẹp núi rừng Việt Bắc. Sự nối tiếp, đan xen sắc màu làm nên mạch cảm xúc của đoạn thơ, nỗi nhớ qua từng câu càng đậm đà và mãnh liệt hơn. Trên cơ sở đó, nhà thơ hướng toàn bộ tâm tư về con người – nhân dân với những phẩm chất bình thường mà vĩ đại.
- Thiên nhiên và con người đã trở thành tâm điểm của bức tranh tứ bình. Tố Hữu đã khéo léo vận dụng thành công đặc trưng tái hiện không gian vô cực của thi ca – gói trọn bốn mùa: xuân – hạ – thu – đông trong những sắc màu đẹp nhất, hài hòa nhất. Bước luân chuyển của thời gian được tác giả chọn ở những thời điểm nên thơ, tạo ấn tượng không phai mờ trong kí ức. Nhớ cảnh để nhớ người.
Bức tranh mùa đông:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
– Nét son của bức tranh núi rừng ở đây là màu “đỏ tươi” của “hoa chuối”. Chấm phá của tranh thủy mặc điểm một sắc đỏ trong không gian xanh bao la, không gian mang sức sống mãnh liệt. Ở đấy là cách nhìn của thi nhân Á Đông, người đọc có thể nhớ đến một cảm xúc quen thuộc trong thơ Nguyễn Trãi:
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ.
(Cảnh ngày hè)
– Mùa đông trong câu thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè, không hề có cảm giác lạnh lẽo, bởi sắc đỏ hoa chuối cũng như phun trào từ giữa màu xanh của rừng.
– Bên cạnh nét đẹp của hoa là nét đẹp của người thật khỏe khoắn với nắng ánh dao gài thắt lưng là hình ảnh người dân miền sơn cước. Cách hoán dụ không phải tình cờ ngẫu nhiên mà chọn con dao đi rừng – vật bất li thân của người miền núi – nét đặc trưng của cuộc sống Việt Bắc. Con người nổi bật trong không gian đèo cao, càng nổi bật trong ánh nắng, thành một điểm sáng giữa khung cảnh mùa đông, mang trong mình nét hiên ngang hùng vĩ kiêu hãnh của núi rừng, làm tăng thêm sự cảm phục, ngưỡng mộ và yêu mến vô cùng trong lòng người ra đi.
Bức tranh mùa xuân:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
– Không gian mùa xuân bừng sáng trong sắc hoa mơ. Sức sống mùa xuân lan tỏa khắp núi rừng Việt Bắc. Phép đảo ngữ trong cụm từ “trắng rừng” đem lại ấn tượng về những khu rừng Việt Bắc mênh mông, trắng xóa sắc hoa mơ; động từ “nở” cho thấy sức sống sinh sôi, tràn trề của núi rừng mùa xuân.
– Giữa nền trắng hoa mơ, nổi bật hình ảnh “người đan nón”. Nỗi nhớ ở đây cụ thể đến từng chi tiết “chuốt từng sợi giang”. Người Việt Bắc hiện lên ở nét đẹp cần mẫn, chịu thương chịu khó. Trong cách tả không có một âm vang nào của núi rừng, nhưng vẻ đẹp của mùa xuân vẫn sinh động nhờ hoạt động của con người. Sợi nhớ, sợi thương đan dày trong tâm tưởng, con người đẹp tự nhiên trong những công việc tỉ mẩn hàng ngày. Đó là những nét đáng yêu, đáng nhớ của Việt Bắc mãi in đậm trong lòng người ra đi.
Bức tranh mùa hạ:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
– Không gian nỗi nhớ hình như rõ nét nhất, đậm đà nhất trong bức tranh mùa hạ. Và cũng đọng lại hình ảnh ngọt ngào thân thương nhất của “cô em gái hái măng”. Câu thơ tả cảnh giàu sức biểu cảm, tiếng ve ran gọi màu vàng tràn ngập không gian.
– Không gian lung linh hơn khi sắc vàng đổ xuống. Ấn tượng màu vàng đẹp như bức vẽ tả thực vừa làm xao xuyến lòng người trong tiếng ve gọi hè, như gọi cả màu vàng đất trời về phủ kín cánh rừng. Động từ “đổ” miêu tả sự chuyển màu đột ngột, nhanh chóng của bức tranh thiên nhiên, đưa đến cảm giác ngỡ ngàng, choáng ngợp trong lòng người.
– Nổi bật giữa khung cảnh là hình ảnh “cô em gái”. Cách gọi biểu lộ niềm thân thương trìu mến của con người. Câu thơ gợi nhớ vẻ đẹp nên thơ của một cô hái mơ thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ (Cô hái mơ – Nguyễn Bính). Nhưng ở đây cô gái Việt Bắc mang vẻ đẹp khỏe khoắn mộc mạc hơn. Một mình nhưng không tạo cảm giác cô đơn hiu quạnh, vì cả không gian nhuộm rực ánh vàng, làm lưu luyến bước chân người ra đi.
Bức tranh mùa thu:
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
– Mùa thu kết thúc đoạn tứ bình, cũng là thời điểm kết thúc cuộc kháng chiến gian nan, oanh liệt, thời điểm chia li giữa Việt Bắc và những người kháng chiến. Không gian chuyển về đêm. Như hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mĩ của núi rừng Việt Bắc. Đêm thu và ánh trăng như lan tỏa vào màu xanh của núi rừng. Vẻ đẹp của khu rừng dưới ánh trăng gợi lên vẻ huyền ảo. Khung cảnh gọi hồn thơ.
– “Rọi” là động từ miêu tả nguồn sáng tập trung soi chiếu xuống một điểm hẹp trong không gian. Cách dùng từ này không chỉ giúp nhà thơ miêu tả chính xác ánh trăng lọt qua vòm cây, kẽ lá của núi rừng mà còn thể hiện tinh tế những cảm xúc của con người: đêm nay trăng sao cũng như thấu hiểu lòng người, trong giờ phút chia li như muốn dành riêng cho Việt Bắc, muốn tập trung soi chiếu hình ảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc trong nỗi nhớ thương tha thiết của người ra đi.
– Nỗi nhớ cũng mênh mang như ánh trăng, thành tiếng hát ân tình thủy chung. Nhớ không cụ thể một đối tượng nào. Như ca dao đã diễn tả:
– Tình người bâng khuâng trong câu thơ gợi cảm xúc đồng điệu giữa kẻ ở – người đi. Đọng lại trong nỗi nhớ là “ân tình thủy chung” dào dạt. Ánh trăng đã là hình ảnh của cuộc sống hòa bình, tiếng hát vang lên giữa rừng sâu, dưới ánh trăng thanh càng làm đậm hơn cảm giác tươi vui, thanh bình và sự hồi sinh sau chiến tranh. Cụm từ “nhớ ai” khiến hình ảnh con người như nhòa di, nỗi nhớ trở nên sâu đậm, ám ảnh hơn…
Đoạn thơ diễn tả nỗi nhớ gắn với hình ảnh của núi rừng Việt Bắc. Mỗi mùa mang một sắc màu riêng và bốn mùa hòa chung màu sắc đa dạng, làm nên vẻ hấp dẫn cho bức tranh phong cảnh trữ tình. Thời gian diễn tả không tuần tự, nhưng không làm phai nỗi nhớ. Mỗi mùa đi qua có một khoảnh khắc đáng nhớ – đó là khi trái tim nhà thơ bắt nhịp cùng không gian – cảnh vật.
Đoạn thơ mang nét đẹp cổ điển mà hiện đại: cổ điển – ức tranh tứ bình hiện lên qua những nét gợi tả; hiện đại – hình ảnh con người đã trở thành tâm điểm, tạo nên vẻ đẹp, sức sống của bức tranh.
V. TỪ CÂU 53 đến câu 90: Khung cảnh Việt Bắc kháng chiến, lập nhiều chiến công, vai trò của Việt Bắc trong cách mạng và kháng chiến
1. Từ câu 53 đến câu 74
Trong hoài niệm bao trùm có ba mảng thống nhất hòa nhập đó là: nỗi nhớ thiên nhiên – nỗi nhớ cuộc sống con người ở Việt Bắc – nỗi nhớ về cuộc chiến đấu anh hùng chống thực dân Pháp xâm lược. Theo dòng hồi tưởng, người đọc được sống lại những giây phút của cuộc kháng chiến với không gian rộng lớn, những hoạt động sôi sục khí thế được vẽ bằng bút pháp của những tráng ca. Cảnh Việt Bắc đánh giặc được miêu tả bằng những bức tranh rộng lớn, kì vĩ.
– Rừng núi mênh mông, hùng vĩ trở thành bạn của ta, chở che cho bộ đội ta, cùng quân và dân ta đánh giặc.
– Chiến khu là căn cứ vững chắc, đầy nguy hiểm với quân thù.
– Nghệ thuật so sánh, nhân hoá: “núi giăng thành luỹ sắt”, “rừng che”, “rừng vây”…
– Những cái tên, những địa danh ở chiến khu Việt Bắc: “Phủ Thông”, “đèo Giàng”, “sông Lô”, “phố Ràng”, “Cao – Lạng”…vang lên đầy mến yêu, tự hào, cũng trở thành nỗi nhớ của người cán bộ kháng chiến về xuôi.
– Không khí chiến đấu hào hùng, khí thế hừng hực trào sôi:
Sức mạnh của quân ta với các lực lượng bộ đội, dân công… sự hợp lực của nhiều thành phần tạo thành khối đoàn kết vững chắc
Các từ: “rầm rập”, “điệp điệp”, “trùng trùng”…thể hiện khí thế dồn dập.
Hình ảnh người chiến sĩ được gợi lên qua chi tiết giàu chất tạo hình: Ánh sao đầu mũ bạn cùng mũ nan•ánh sáng của sao dẫn đường, ánh sáng của niềm tin, của lí tưởng.
Thành ngữchân cứng đá mềm đã được nâng lên thành một bước cao hơn bước chân nát
đá,muôn tàn lửa bay.
– Chiến công tưng bừng vang dội khắp nơi: Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên, đèo De, núi Hồng… Niềm vui chiến thắng chan hòa bốn phương: “Vui từ…vui về…vui lên”…
Đoạn thơ ngập tràn ánh sáng: ánh sao, ánh đuốc, ánh đèn pha… như ánh sáng của niềm tin tưởng, niềm vui tràn ngập. Nhịp thơ dồn dập gấp gáp, âm hưởng hào hùng, náo nức tạo thành khúc ca chiến thắng.
2.Từ câu 75 đến câu 90
Đoạn thơ phác họa hình ảnh giản dị mà trang trọng của một cuộc họp Chính phủ trong hang núi mà vẫn rực rỡ dưới ánh cờ đỏ sao vàng trong nắng trưa và kết thúc bằng sự thâu tóm hình ảnh Việt Bắc quê hương cách mạng, đầu não của cuộc kháng chiến, nơi đặt niềm tin tưởng và hi vọng của con người Việt Nam từ mọi miền đất nước, đặc biệt là những nơi còn “u ám quân thù”.
VI. ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT
Việt Bắc là một trong những đỉnh cao của thơ ca cách mạng Việt Nam. Tiếng thơ trữ tình
– chính trị của Tố Hữu đậm đà tính dân tộc.
1. Nội dung
– Những bức tranh chân thực, đậm đà bản sắc dân tộc về thiên nhiên và con người Việt Bắc được tái hiện trong tình cảm tha thiết, gắn bó sâu sắc của tác giả.
– Tình nghĩa của người cán bộ và đồng bào Việt Bắc với cách mạng, kháng chiến, với Bác Hồ là những tình cảm cách mạng sâu sắc của thời đại mới. Những tình cảm ấy hòa nhập và tiếp nối mạch nguồn tình cảm yêu nước, đạo lí ân tình thủy chung vốn là truyền thống sâu bền của dân tộc.
2. Hình thức
– Thể thơ lục bát truyền thống đã được vận dụng tài tình trong một bài thơ dài, vừa tạo âm hưởng thống nhất mà lại biến hóa đa dạng.
– Lối kết cấu đối đáp trong ca dao dân ca được vận dụng một cách hợp lí, tài tình.
– Những lối nói giàu hình ảnh, các cách chuyển nghĩa truyền thống (so sánh, ẩn dụ, tượng trưng, ước lệ) được vận dụng khéo néo tinh tế.
– Giọng thơ ngọt ngào, tâm tình, cách xưng hô “mình – ta” quen thuộc trong ca dao khiến bài thơ như một bản tình ca về lòng thủy chung son sắt của người cách mạng với người dân Việt Bắc.
Trả lời câu hỏi trong sách giáo khoa ngữ văn 12
Tham khảo phần trả lời câu hỏi để có sự chuẩn bị cho soạn văn 12 bài Việt Bắc thật tốt nhé!
Câu 1: Nêu những nét lớn trong cuộc đời Tố Hữu.
- Tố Hữu (1920-2002).
- Tên khai sinh: Nguyễn Kim Thành.
- Quê quán: Quảng Thọ, Quảng Điền, Thừa Thiên – Huế.
- Thân sinh: là nho nghèo.
- Thân mẫu: con một nhà nho, thuộc và hát dân ca rất hay.
⇒ Cả hai truyền cho nhà thơ tình yêu văn học dân gian.
- Năm 13 tuổi: Học trường Quốc học Huế.
- Tham gia phong trào đấu tranh cách mạng:
- 1938 :Kết nạp Đảng.
- Cuối tháng 4-1939 bị thực dân Pháp bắt giam.
- Tháng 3-1942: vượt ngục ra Thanh Hoá tiếp tục hoạt động.
- Cách mạng tháng Tám 1945: Chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa Huế.
- 1947: Ra Thanh Hoá, lên Việt Bắc công tác ở cơ quan TƯ Đảng, phụ trách văn hoá văn nghệ.
- Trong hai cuộc kháng chiến đến năm 1986: Giữ nhiều chức vụ trọng yếu trong bộ máy của Đảng và Nhà nước.
- Năm 1996: Được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
- Năm 2002: Nhà thơ qua đời.
Câu 2: Những chặng đường thơ của Tố Hữu gắn bó như thế nào với những chặng đường cách mạng của bản thân nhà thơ, với những giai đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam?
- Những chặng đường thơ của Tố Hữu gắn bó mật thiết với những chặng đường cách mạng của bản thân nhà thơ, với những giai đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam. Có thể nói đường đời, đường thơ Tố Hữu luôn song hành cùng con đường cách mạng của cả dân tộc, phục vụ có hiệu quả cho cuộc cách mạng đó.
- Mối quan hệ khăng khít, gắn bó đó được thể hiện trong các chặng đường thơ của Tố Hữu:
- 1937 – 1946: Cách mạng giải phóng dân tộc: tập thơ Từ ấy.
- 1946 – 1954: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp: tập thơ Việt Bắc.
- 1955 – 1961: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước: tập thơ Gió lộng.
- 1962 – 1975: Cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ và ngày toàn thắng, thống nhất đất nước: tập thơ Ra trận (1962 – 1971), tập thơ Máu và Hoa (1972 – 1977).
- Từ 1986 trở đi: Đất nước bước vào công cuộc đổi mới: các tập thơ Một tiếng đờn (1992) và Ta với Ta (1999).
Câu 3: Tại sao nói thơ Tố Hữu mang tính chất trữ tình chính trị?
Thơ Tố Hữu mang tính chất trữ tình chính trị vì:
- Trong việc biểu hiện tâm hồn: thơ Tố Hữu hướng đến cái ta chung với những lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người cách mạng, của cả dân tộc.
- Tình cảm lớn: tình yêu lí tưởng (Từ ấy), tình cảm kính yêu lãnh tụ (Sáng tháng năm), tình cảm đồng bào đồng chí, tình quân dân (Cá nước), tình cảm quốc tế vô sản (Em bé Triều Tiên).
- Niềm vui lớn: niềm vui trước những chiến thắng của dân tộc (Huế tháng Tám, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Toàn thắng về ta).
- Trong việc miêu tả đời sống: Thơ Tố Hữu mang đậm tính sử thi:
- Luôn đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính chất toàn dân:
- Công cuộc xây dựng đất nước (Bài ca mùa xuân 1961).
- Cả nước ra trận đánh Mỹ (Chào xuân 67).
- Cảm hứng chủ đạo là cảm hứng lịch sử dân tộc chứ không phải là cảm hứng thế sự – đời tư: nên con người trong thơ Tố Hữu là con người của sự nghiệp chung, mang phẩm chất tiêu biểu cho cả dân tộc, mang tầm vóc lịch sử và thời đại: anh vệ quốc quân (Lên Tây Bắc), anh giải phóng quân (Tiếng hát sang xuân), anh Nguyễn Văn Trỗi (Hãy nhớ lấy lời tôi), chị Trần Thị Lý (Người con gái Việt Nam).
- Luôn đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính chất toàn dân:
- Giọng thơ mang chất tâm tình, rất tự nhiên, đằm thắm, chân thành:
- Xuất phát từ tâm hồn của người xứ Huế.
- Do quan niệm của nhà thơ: “Thơ là chuyện đồng điệu…”.
Câu 4: Tính dân tộc trong hình thức nghệ thuật Tố Hữu biểu hiện ở những điểm cơ bản nào?
Tính dân tộc trong hình thức nghệ thuật Tố Hữu biểu hiện qua các phương diện sau:
- Về thể thơ: đặc biệt thành công khi vận dụng những thể thơ truyền thống của dân tộc:
- Lục bát ca dao và lục bát cổ điển (Khi con tu hú, Việc Bắc, Bầm ơi, Kính gửi cụ Nguyễn Du…).
- Thể thất ngôn (Quê mẹ, Mẹ Tơm, Bác ơi, Theo chân Bác…) dạt dào âm hưởng, nghĩa tình của hồn thơ dân tộc.
- Về ngôn ngữ:
- Thường sử dụng những từ ngữ, những cách nói quen thuộc với dân tộc.
- Phát huy cao độ tính nhạc, sử dụng tài tình các từ láy, các thanh điệu, các vần thơ,….
Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan,
Đường bạch dương sương trắng nắng tràn.
(Em ơi Ba Lan)
Thác, bao nhiêu thác cũng qua,
Thênh thênh là chiếc thuyền ta trên đời.
(Nước non ngàn dặm)
Luyện tập các đề phân tích
Các đề bài Phân tích Việt Bắc để luyện tập:
Đề 1:
Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung.
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Dấu chân nát đá muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về.
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc đèo De, núi Hồng.
Đề 2:
Xuân Diệu viết: “Tố Hữu đã đưa thơ trữ tình chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình” (Tố Hữu với chúng tôi, Tldđ). Anh chị hiểu nhận xét đó như thế nào?
Xem nội dung hướng dẫn làm bài dưới đây
Bộ câu hỏi thi trắc nghiệm có tác phẩm Việt Bắc
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử – trấn động địa cầu, Bài thơ Việt Bắc ra đời. Có thể nói, đây là bản hùng ca về kháng chiến, về cách mạng, về tình yêu thiên nhiên đất nước, về tự hào dân tộc… Hãy nắm rõ soạn bài Việt Bắc để học tốt và làm các đề bài phân tích Việt Bắc đạt điểm cao nhé. Onthidgnl chúc các em học tốt!