Cùng tham khảo nội dung Soạn bài Độc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du) | Văn 11 Kết nối tri thức được Onthidgnl chia sẻ sau đây. Các em tham khảo để chuẩn bị bài soạn văn 11 kết nối tri thức được tốt nhé.
Mục lục
Soạn bài Độc Tiểu Thanh kí sách Kết nối tri thức
Trả lời câu hỏi trước khi đọc văn bản
Câu 1: Kể tên một số tác phẩm trong kho tàng văn chương Việt Nam viết về những thân phận bất hạnh của người phụ nữ mà em đã biết.
Lời giải chi tiết:
– Chuyện người con gái Nam Xương
– Tự tình
– Bánh trôi nước
– Chinh phụ ngâm,….
Câu 2: Qua nhân vật Thúy Kiều, hãy chia sẻ cảm nhận của em về số phận của những người phụ nữ sống trong xã hội phong kiến.
Lời giải chi tiết:
Thật hiếm có người phụ nữ nào trong nền văn học sở hữu một số phận “đoạn trường” như nhân vật Vương Thuý Kiều trong tác phẩm “Truyện Kiều”. Ngay khi mới đọc phần mở đầu, nhận định của tác giả là “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” đã dự báo về số phận đau đớn ấy. Thuý Kiều sở hữu một vẻ đẹp vô cùng đằm thắm, mảnh mai là thế, lại có tài sắc vẹn toàn hiếu nghĩa, đáng nhẽ ra nàng phải được sống một cuộc sống hạnh phúc và êm ấm, vậy mà do một biến cố ập đến với gia đình nên đã bị bán với cái giá hơn bốn trăm lạng vàng. Bất hạnh này đã mở đầu cho một chuỗi bất hạnh khác mãi cho đến khi nàng tìm tới sông Tiền Đường để tự vẫn thì mới chấm dứt. Dẫu biết rằng kết chuyện Thúy Kiều vẫn được về sum họp lại với gia đình nhưng cả một kiếp người sống trôi nỗi truân chuyên đó đã vùi dập lên một trang sắc nước hương tài. Độc giả đã phải khóc cho bao nhiêu lần chia phôi vĩnh viễn, những tháng ngày sống chẳng bằng chết trong lầu Ngưng Bích, những nỗi tủi nhục đã rày xé thân mình của nhân vật Thuý Kiều. Số phận bi thảm ấy của người con gái đã khiến cho muôn đời phải thốt lên rằng “Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều”. Phải chăng vì vậy mà người xưa đã truyền tai nhau câu nói “Hồng nhan thì bạc phận” nhưng những lễ giáo vô cùng khắc nghiệt và lạc hậu cũng đã lùi về dĩ vãng. Người phụ nữ giờ đây đã có được quyền bình đẳng, nhất là quyền được tự do trong hôn nhân và quyền được quyết định cho số phận của mình. Những hành vi xúc phạm về nhân phẩm của người phụ nữ đều phải bị trừng trị thật nghiêm khắc. Số phận của Thuý Kiều là một tấn những bi kịch về tình yêu, mối tình đầu bị tan vỡ. Nàng phải bán thân mình chuộc cha, đã phải thanh lâu hai lượt thanh y hai lần. Hai lần nàng tự tử và hai lần nàng đi tu, hai lần phải ở lầu xanh, hai lần làm con ở mà quyền sống và quyền hạnh phúc đều bị cướp đoạt nhiều lần. Tấm lòng vô cùng trong trắng và trinh bạch của người con gái tài sắc vẹn toàn ấy được ví như bèo dạt mây trôi. Suốt mười lăm năm phải chịu cảnh đoạn trường lưu lạc, nàng Kiều đã phải gặp biết bao nhiêu cay đắng và tủi nhục dày vò lên chính bản thân. Nỗi đau đớn nhất của nàng chính là nỗi đau khi mà phẩm giá của con người đã bị chà đạp và lòng tự trọng thì bị sỉ nhục:
Thân lươn bao quản lấm đầu
Tấm lòng trinh bạch lần sau xin chừa.
Tựa cánh bèo trôi trên ngọn sóng, như cánh buồm đang trôi dạt trên biển khơi, cuộc đời của Kiều cũng trôi dạt và lênh đênh đến tận cùng của bến bờ khốn khổ. Giữa trời cao bể rộng không một chỗ dung thân cho người. Dù con người đó chỉ có một nguyện vọng hết sức đơn giản đó là được sống cuộc sống bình yên bên cạnh cha mẹ và được chung thủy với người mình yêu. Kiều là người phụ nữ được nhận xét là tài sắc vẹn toàn. Trong nhân gian thì chỉ có Kiều là nhất, còn về tài năng thì ngoài nàng ra thì may ra còn có người thứ hai chính là Đạm Tiên. Ngòi bút của nhà thơ khi viết về Kiều có lẽ đã đạt tới độ cực đỉnh, không có một từ ngữ nào có thể miêu tả được hết tài sắc của Kiều nữa. Bên cạnh sự tài giỏi và sắc đẹp, Nguyễn Du còn ca ngợi Thuý Kiều là một người thấu tình đạt nghĩa. Kiều là một người phụ nữ vô cùng thủy chung, bị bán vào lầu xanh nhưng nàng nguyện lấy cái chết ra để bảo vệ cho danh tiết cho mình. Nàng là một người con hết sức hiếu thảo, không hề nghĩ tới hạnh phúc riêng của mình, nàng sẵn sàng “bán mình chuộc cha”, giúp cho gia đình thoát khỏi cảnh hoạn nạn. Kiều đã làm tròn được chữ hiếu, báo đáp được công ơn sinh thành dưỡng dục với cha mẹ. Trong suốt khoảng thời gian lưu lạc dài dằng dẵng, Kiều chẳng bao giờ cam chịu, chẳng bao giờ chịu khuất phục và trong ý thức, nàng là “con người chống đối” và cũng là “kẻ nổi loạn”. Nàng vượt ra chốn lầu xanh đầy ô nhục của Tú Bà và Bạc Bà, trốn khỏi cái chốn “hang hùm nọc rắn” của giới quý tộc họ Hoạn, rồi tới được với người anh hùng Từ Hải. Và cuối cùng nàng cũng đền ơn, trả oán một cách minh bạch, công khai. Kiều tượng trưng cho những người phụ nữ với khát vọng được tự do, tin vào công lý và chính nghĩa.
Bằng chính tấm lòng nhân đạo rất sâu sắc và cao cả, Nguyễn Du đã miêu tả vô cùng chân thực và đầy xót xa về số phận của người phụ nữ sống trong xã hội cũ. Viết về những người đàn bà với sự bất hạnh, đẹp người đẹp nết ấy, các nhà văn, nhà thơ đã viết bằng sự ca ngợi và nâng niu vô bờ bến. Chúng ta có thể cảm nhận được điều ấy và càng thương xót hơn cho thân phận khốn khổ của họ.
Trả lời câu hỏi trong khi đọc văn bản
Câu 1: Theo dõi về mạch cảm xúc của tác giả trong bài thơ.
Lời giải chi tiết:
Mạch cảm xúc của tác giả đi từ những điều đẹp đến buồn, từ hiện tại tới quá khứ rồi tới sự thương tiếc cho thân phận của chính tác giả.
Câu 2: Chú ý về sự đồng cảm với những bi kịch của người phụ nữ và cảm thán về thân phận của chính tác giả.
Lời giải chi tiết:
Sự đồng cảm ở đây chính là sự đồng cảm với những người tài hoa nhưng lại bạc mệnh và cũng chính là lời cảm thán về sự ra đi của chính mình với sự lãng quên của người đời.
Trả lời câu hỏi sau khi đọc văn bản
Câu 1 trang 19 SGK Văn 11/2 Kết nối tri thức
Theo em, nội dung ở câu 1 và câu 2 của bài thơ có mối quan hệ logic như thế nào với nhau?
Lời giải chi tiết:
Hình ảnh thơ đối lập giữa quá khứ với hiện tại: Tây Hồ hoa uyển (chính là vườn hoa bên Tây Hồ) – thành khư (là gò hoang).
→ Nguyễn Du như muốn nhấn mạnh về sự cô đơn nhưng cũng nhấn mạnh thêm về sự tương xứng của cuộc gặp gỡ đó. Một trạng thái vô cùng cô đơn gặp gỡ một kiếp cô đơn bất hạnh
⇒ Hai câu thơ diễn tả được tâm trạng của tác giả Nguyễn Du trước khung cảnh hoang tàn, đó cũng chính là nỗi niềm vô cùng xót xa và tiếc nuối cho số phận của nhân vật Tiểu Thanh.
Câu 2 trang 19 SGK Văn 11/2 Kết nối tri thức
Chỉ ra và nhận xét về mối quan hệ về ý ở hai câu thực
Lời giải chi tiết:
→ Triết lí về số phận của con người trong thời kì xã hội phong kiến: tài hoa nhưng bạc mệnh, hồng nhan đa truân, tài mệnh tương đố… cái tài và cái sắc thường bị vùi dập.
→ Hai câu thơ cực tả về nỗi đau trong số phận vô cùng bất hạnh của nàng Tiểu Thanh đồng thời cũng chính là tấm lòng trân trọng và ngợi ca vẻ đẹp, qua đó đề cao tài năng trí tuệ của nhân vật Tiểu Thanh; đồng thời cũng mang sức tố cáo mạnh mẽ.
Câu 3 trang 19 SGK Văn 11/2 Kết nối tri thức
Phân tích về những cảm xúc và suy ngẫm của tác giả được thể hiện thông qua hai câu luận.
Lời giải chi tiết:
– “Cổ kim hận sự”: mối hận thời xưa và nay, mối hận ngàn đời hay mối hận truyền kiếp. Đó chính là mối hận của những con người tài hoa nhưng bạc mệnh.
– Thiên nan vấn: khó có thể hỏi trời.
→ Câu thơ mang sự khái quát rất cao. Nỗi hận ấy không chỉ là nỗi hận của riêng nàng Tiểu Thanh, của tác giả Nguyễn Du mà của tất cả những người tài hoa sống trong xã hội phong kiến. Câu thơ thể hiện lên sự đau đớn phẫn uất cao độ trước một thực tế hết sức vô lý: người có sắc thì thật bất hạnh, nghệ sĩ có tài thì thường cô độc.
– Kì oan: nỗi oan ức lạ lùng
– Ngã: ta (từ dùng để chỉ bản thể cá nhân táo bạo so với thời đại mà tác giả Nguyễn Du sống). Nguyễn Du không muốn đứng bên ngoài mà muốn nhìn vào nữa và giờ đây ông chủ động đi tìm sự tri âm cùng nàng, với những người tài hoa nhưng lại bạc mệnh.
⇒ Nguyễn Du không chỉ cảm thấy thương xót cho số phận nàng Tiểu Thanh mà còn liên hệ tới nỗi hận của muôn người và muôn đời khác trong đó có chính nhà thơ. Qua đó, thể hiện lên sự cảm thông vô cùng sâu sâu sắc tới độ “tri âm tri kỉ”
Câu 4 trang 19 SGK Văn 11/2 Kết nối tri thức
Chia sẻ về suy nghĩ của em về tâm sự của tác giả Nguyễn Du ở hai câu kết.
Lời giải chi tiết:
Thể hiện lên nỗi cô đơn của người nghệ sĩ lớn “Tiếng chim cô lẻ giữa trời thu khuya” (tác giả Xuân Diệu). Ông thấy mình vô cùng lạc lõng ở hiện tại và đã tìm thấy được một người có thể xem là tri kỉ ở quá khứ nhưng vẫn luôn mong ngóng một tấm lòng khác xuất hiện trong tương lai.
Câu 5 trang 19 SGK Văn 11/2 Kết nối tri thức
Qua bài thơ, tác giả đã khái quát lên bi kịch chung mà những người tài hoa và phong nhã trong xã hội phong kiến phải chịu như thế nào?
Lời giải chi tiết:
Qua bài thơ, tác giả đã có thể khái quát chung về số phận những người tài hoa sống trong xã hội phong kiến, dường như tạo hóa đã ghen tị với những tài hoa mà họ có nên phán cho họ một cuộc đời đầy những bất hạnh và khổ đau, đó chính là nỗi bất công và sự đau khổ truyền kiếp của những con người tài hoa sống trong xã hội ấy.
Câu 6 trang 19 SGK Văn 11/2 Kết nối tri thức
Hãy tìm đọc sau đó giới thiệu một số tác phẩm viết về chủ đề người phụ nữ của Nguyễn Du.
Lời giải chi tiết:
Bài thơ Sở kiến hành của tác giả Nguyễn Du là một trong những tác phẩm nói lên nỗi bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa, đó là hình ảnh về một người mẹ nghèo đói và khổ cực, phải đi ăn xin để nuôi nấng những đứa con của mình. Qua đó, ta không chỉ thấy được những bi kịch của người mẹ mà còn cảm nhận được nỗi lòng của người mẹ ấy, luôn luôn hết lòng với con cái của mình.
Kết nối đọc – viết
Viết đoạn văn (dài khoảng 150 chữ) so sánh nội dung giữa hai câu luận của Độc Tiểu Thanh ký dưới đây:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Lời giải chi tiết:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Hai câu thơ này đã được tác giả Nguyễn Du viết – chính là lời cảm thán của Kiều khi đứng trước ngôi mộ lạnh lẽo của Đạm Tiên – một kỹ nữ. Hai câu thơ chính là một lời than thở của nhân vật Kiều hay cũng chính là của tác giả Nguyễn Du trước nỗi đau mà những người phụ nữ trong xã hội phong kiến phải chịu đựng. Lời thơ như một tiếng thở dài đầy đau xót của chính tác giả, Nguyễn Du cũng đã có những năm tháng phải phiêu bạt và chịu đựng cảnh đói, nghèo khổ, có lẽ vì vậy mà ông rất hiểu về những số phận nghèo khó và cả về hoàn cảnh đau khổ của những người phụ nữ sống thời kỳ ấy. Đó là lời thương cảm của tác giả Nguyễn Du, là tấm lòng vô cùng nhân đạo và đầy cao cả của ông đối với những người phụ nữ Việt Nam xưa – những thân phận vốn “thấp cổ bé họng” sống lầm lũi trong xã hội phong kiến đương thời. Qua hai câu luận trong Độc Tiểu Thanh ký, nhà thơ như muốn an ủi nàng Tiểu Thanh, tự nhủ với chính mình rằng xưa nay những người tài hoa mà bạc mệnh cũng có rất nhiều, việc đó chỉ có trời mới có thể hiểu. Nhưng dù trời có hiểu đi chăng nữa thì vẫn chẳng thể nào can thiệp được với sự ganh ghét của người vợ cả hay của người đời về lối sống hết sức phong lưu đài các và nhàn nhã của người có tài. Nguyễn Du không chỉ thương xót cho số phận nàng Tiểu Thanh mà còn bàn tới nỗi hận thù của muôn người và muôn đời trong đó có chính bản thân nhà thơ. Qua đó, thể hiện được sự cảm thông vô cùng sâu sắc tới độ “tri âm tri kỉ”.
…
Hy vọng rằng nội dung về Soạn bài Độc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du) | Văn 11 Kết nối tri thức…sẽ là tài liệu soạn văn 11 hiệu quả giúp các em học sinh nắm chắc kiến thức trước khi đến lớp và giúp tự tin hơn trong kỳ thi tốt nghiệp THPT môn ngữ văn. Hãy tham khảo và vận dụng thật tốt để đạt kết quả cao cho kỳ thi sắp tới nhé!
Theo dõi MXH của Onthidgnl nhé:
FB: https://www.facebook.com/onthidgnlcom