Tham khảo nội dung Phân tích tính hung bạo của con sông Đà được Onthidgnl chúng tôi sưu tập sau đây để có sự chuẩn bị tốt cho bài Phân tích Người lái đò sông Đà nếu gặp trong kì thi Văn THPT quốc gia nhé!
Mục lục
MỞ BÀI Phân tích tính hung bạo của con sông Đà
Mở bài 1:
Sáng tạo văn chương là một nghề nhưng là “nghề của bề sâu”, nó cũng tựa việc đào giếng vậy, chỉ có đào sâu mới tìm ra mạch nước. Lao động nghệ thuật chưa bao giờ dễ dàng, người nghệ sĩ phải hòa mình vào cuộc đời, hiểu thấu đủ cung bậc cảm xúc trong bể đời thì mới có thể tạo dựng được những tác phẩm “vượt qua mọi sự băng hoại của thời gian” cũng như “không thừa nhận cái chết”. Để làm được như vậy, anh phải sử dụng thật nhuần nhuyễn và điêu luyện chất liệu ngôn từ, không ngừng sáng tạo nghệ thuật từ đó giúp bộc lộ quan niệm nhân sinh của mình. “Bậc thầy phù thủy ngôn từ” – Nguyễn Tuân là một minh chứng như thế, tùy bút “Người lái đò Sông Đà” chính là diện mạo mới của ông sau Cách mạng, mang theo mục đích cao cả mà văn học hướng tới: “Mục đích đầu tiên và sau cùng của Nghệ thuật và Văn học là mang đến cái hay, cái đẹp cho đời” (Trịnh Công Sơn). Dưới ngòi bút tài hoa, con Sông Đà vô tri vô giác được tái hiện lên với nét tính cách không kém phần hung bạo tựa hung thần thủy quái.
Mở bài 2:
Thạch Lam từng nói rằng “Một nhà văn thiên tài là người muốn cảm nhận mọi vẻ đẹp man mác của vũ trụ.” và mỗi khi đọc được dòng chữ này tôi lại nhớ đến Nguyễn Tuân- một người nghệ sĩ chân chính, một nhà văn miệt mài đốt đuốc đến tận hang cùng ngõ hẻm để truy tìm dáng dấp của cái Đẹp. Có thể nói, từng trang viết của ông là sự đúc kết của vạn kiếp phù sinh hẳn vị phong sương trong mỗi chuyến “xê dịch” của cuộc đời. Và rồi hiện lên như một áng văn tiêu biểu góp phần khẳng định tên tuổi của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám, tùy bút “Người lái đò sông Đà” đã tái hiện thành công một Tây Bắc đang tiến lên chủ nghĩa xã hội trong tiếng hát hứng khởi, lạc quan, yêu đời. Bằng ngòi bút điêu luyện sắc sảo đây tài hoa của tác giả, men theo từng con chữ phong sương, kiêu bạc giữa vạn dặm đại dương câu từ, bạn đọc như được thả trôi theo từng triện chữ kí họa một cách sắc nét vẻ đẹp hùng vĩ cùng tính cách hung bạo của sông Đà trong hồn thiêng núi sông.
Tham khảo: Mở bài Người lái đò sông Đà được lựa chọn từ học sinh giỏi
Thân bài Phân tích tính hung bạo của con sông Đà
Tổng quát:
Nguyễn Tuân (1910-1987), quê quán quận Thanh Xuân – Hà Nội, là nhà văn lớn, được mệnh danh là một nghệ sĩ lớn suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông có vị trí quan trọng và đóng góp lớn cho cho nền văn học VN hiện đại: thúc đẩy thể tùy bút, bút kí đạt tới trình độ nghệ thuật cao; làm phong phú thêm ngôn ngữ văn học dân tộc; đem đến cho văn xuôi hiện đại một phong cách tài hoa và độc đáo. Tác phẩm: “Người lái đò Sông Đà” là bài tùy bút in trong tập “Sông Đà” (1960) – Tập tuỳ bút gồm có 15 bài, là thành quả nghệ thuật mà tác giả thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc. Chuyến đi không phải chỉ để thỏa mãn niềm khát khao “xê dịch” của tác giả mà chủ yếu để tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên, đặc biệt là “thứ vàng mười đã qua thử lửa” trong tâm hồn con người Tây Bắc. Trong “Người lái đò Sông Đà” , thông qua hai hình tượng nghệ thuật chính là sông Đà và ông lái đò Sông Đà, nhà văn giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên và con người lao động Tây Bắc. Thông qua hình tượng con sông Đà với hai tính cách đối lập là hung bạo và trữ tình, nhà văn đã khắc hoạ cảnh thiên nhiên TB vô cùng hùng vĩ nhưng cũng không kém phần thơ mộng.
Lời đề từ:
Trong ấn tượng của nhà văn, sông Đà hiện lên trước mắt với vẻ đẹp độc đáo qua lời đề từ “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu” tức nghĩa mọi con sông đều chảy về phía Đông duy chỉ có sông Đà là chảy về hướng Bắc. Từ lời đề từ cho ta thấy cá tính độc đáo, sự ngang ngược, hung bạo của dòng sông dữ dội chốn Tây Bắc. Dưới ngòi bút tài hoa, uyên bác của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân, sông Đà không còn là một dòng chảy vô tri, vô giác mà là một “nhân vật” có cá tính, có tâm trạng, tâm địa, có hoạt động thật phong phú và phức tạp
Luận điểm 1: Cảnh đá bờ sông dựng vách thành
Sông Đà hung bạo, lắm thác, nhiều ghềnh đã từng bước vào ca dao xưa:
“Đường lên Mường Lễ bao xa
Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh”
Với một nhà văn ưa thích cảm giác mạnh, chán ghét sự mờ nhạt thì “cưỡi” lên sông Đà hung bạo là trò chơi mà ông không thể bỏ qua. Sự dữ dằn của sông Đà không chỉ hiện ra ở những con thác, mà còn ở quang cảnh hùng vĩ với vẻ đẹp huyền bí, hoang sơ của dòng sông chảy giữa điệp trùng rừng núi Tây Bắc. Như một nhà quay phim lão luyện, Nguyễn Tuân cho người xem thấy bao quát khung cảnh sông Đà, thỉnh thoảng lại dừng lại, cho khán giả những pha “cận cảnh” thật tiêu biểu về sự hung dữ của con sông này. Ấn tượng đầu tiên của người đọc về sự hung bạo của sông Đà chính là hình ảnh cảnh đá bờ sông dựng vách thành. Nguyễn Tuân khẳng định: “Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông dựng vách thành”. Vẻ đẹp hùng vĩ, tính cách hung bạo, dữ dội của sông Đà được thể hiện mạnh mẽ qua những ấn tượng về thị giác. Nhà văn vận dụng tài tình thủ pháp ẩn dụ, so sánh nhằm cực tả độ cao dựng đứng của vách đá. Hai bên bờ sông hoang hoải với những cảnh đá như đang “dựng vách thành”, ta vẫn thường nhắc đến “thành” như một khối kiến trúc quân sự vô cùng kiên cố. Thành quách là nơi bên ngoài quân địch khó mà xâm nhập vào nhưng bên trong quân ta lại nắm rõ nội tình khi nhìn ra để rồi dễ dàng tác chiến.”Sông” cùng với “thành quách” là hai hình ảnh gợi tả sự mênh mông rộng lớn và sự sừng sững, uy nghi. Bằng tài năng nghệ thuật của mình, nhà ảo thuật ngôn từ đã dựng lên trước mắt người đọc vách đá sông Đà kiên cố, thâm nghiêm, bí ẩn. Chính bởi thành trì ấy cao thăm thẳm, sâu hun hút mà “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”.“Đứng ngọ” là thời điểm giữa trưa, là lúc bề mặt trái đất nhận được nhiệt lượng lớn nhất từ mặt trời. Ta đã bắt gặp ánh nắng tinh nghịch trong bao vần thơ về sông nước “nắng chiếu sông Lô” trong thơ Tố Hữu hay “nắng xuống” trong thơ Huy Cận. Ánh nắng chói chang soi chiếu vạn vật nhưng trong ấn tượng của nhà văn họ Nguyễn, chỉ khi lên thiên đỉnh nắng mới được le lói trên lòng sông Đà. Phải chăng, vách đá quá cao, vực sông quá sâu đến độ nắng không thể chiếu xiên ngang mà chỉ có thể hắt xuống từng giọt hiếm hoi như vậy.
Cao, sâu thôi chưa đủ, Nguyễn Tuân còn muốn đưa người đọc đến sự hung bạo tột cùng của cảnh đá bờ sông qua độ hẹp của sông Đà: “Có chỗ vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai, con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Hình ảnh so sánh “như một cái yết hầu” với động từ “chẹt” gợi ta thấy được vách đá lớn bên bờ sông chèn ép khiến lòng sông như nghẹt thở. Chỉ mới qua những nét phác họa đầu tiên, người cầm bút đã khẳng định hành trình lênh đênh sông nước của người lái đò tuyệt đối không phải một chặng đường dễ dàng. Ngược lại, nó chứa đầy thử thách, khó khăn, nguy hiểm. Vì chèn ép lòng sông đến nghẹt thở nên hai bờ gần nhau đến nỗi đứng bên này bờ chỉ cần “nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách”, dường như, cây bút muốn kéo độc giả vào cùng trực tiếp trải nghiệm với mình thông qua những liên tưởng rất đời thường, gần gũi. Ta hình dung được rằng, không cần dùng đến lực, chỉ cần nhẹ tay ném thôi, hòn đá cũng sẽ chạm bờ bên kia. Nhà văn tiếp tục bổ sung thêm hình ảnh “con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia” để nhấn mạnh miêu tả chi tiết, tỉ mỉ của mình. Từ “vọt” khắc họa chuyển động nhẹ nhàng, dứt khoát, chứng tỏ con nai con hổ cũng không cần dùng tới nhiều sức đã có thể chinh phục quãng bờ này. Miêu tả cảnh đá bờ sông dựng thành vách không chỉ bằng những hình ảnh của thị giác, nhà văn còn tạo ra ấn tượng tương phản của xúc giác qua chi tiết “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh”. Vốn dĩ, mùa hè gắn liền với cái oi bức, nóng nực – thế mà tác giả lại khắc họa mùa hạ ấy bởi từ “lạnh” – một tính chất vốn dĩ chỉ thuộc về những ngày đông lạnh giá. Có lẽ, cái lạnh này không chỉ đến từ thời tiết, không phải do nhiệt độ đột ngột giảm bởi thiếu ánh sáng mặt trời – mà còn là cái lạnh từ sâu bên trong tâm hồn, khi ta có cảm giác sợ hãi phải đối diện với thiên nhiên hoang vu, bí ẩn. Để giúp bạn đọc vào cùng tâm thế trải nghiệm với những người đi qua quãng sông ấy, Nguyễn Tuân so sánh cảm giác của người trải nghiệm giống như một người đang đứng ở một cái ngõ hẹp, hai bên là những tòa nhà cao tầng,khi ngẩng lên sẽ thấy những khung cửa sổ của các mái nhà, và chỉ duy nhất một nhà còn sáng đèn. Cũng như những người trên khoang thuyền, ta đang ngóng vọng lên thứ ánh sáng độc nhất chiếu tỏa cho cả một vùng không gian tối đen. Thế nhưng, khoảnh khắc ấy qua đi quá nhanh, đèn điện tắt phụt đột ngột, mặt trời bỏ đi mất, chỉ còn lại sự hoang vu, lạnh lẽo đầy kì bí của dòng sông Tây Bắc… Sự so sánh tăng thêm cảm giác về độ cao hun hút, thăm thẳm của vách đá qua cái nhìn chới với, rợn ngợp của người quan sát.
Luận điểm 2: Ghềnh Hát Loóng
Đến quãng mặt ghềnh Hát Loóng, sự hung bạo của sông Đà lại tăng thêm một bậc,không chỉ dừng lại ở việc gieo rắc cảm giác lạnh lẽo, rùng mình cho những người đi qua khúc đó, mà còn có thể gây nên những nguy hiểm trực tiếp tới ai dám cả gan “bén mảng” đến địa phận của sông Đà. Tác giả không dùng các từ như “mấy cây số”, “vài cây số” mang tính chất ước lượng bởi chúng không nhấn mạnh được độ dài miên man của quãng sông. Nhà văn cũng không đưa ra một con số cụ thể về đo lường độ dài địa lý. Ông dùng từ “hàng” không chỉ khắc họa quãng sông có độ dài miên man đáng sợ, mà còn lồng ghép trong đó biểu cảm- thái độ của chính người viết. Cũng chính cụm từ “dài hàng cây số” dường như bắt đầu thắp lên một nỗi lo âu trong lòng người đọc khi hình dung về không gian ấy. Các sự vật thiên nhiên như đang giao tranh trực tiếp trong một cụm từ vừa sử dụng thủ pháp liệt kê, lại vừa có phép điệp vô cùng ấn tượng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió.” Dường như đến những con chữ của Nguyễn Tuân cũng xô đẩy nhau vẽ nên trước mắt bạn đọc sự gập ghềnh, không bằng phẳng của quãng sông, đồng thời đẩy nhịp văn lên cao khiến ngôn từ dồn dập,gấp gáp. Qua đó, thái độ hung hãn của nước, của đá, của sóng, của gió được thể hiện một cách súc tích mà quá đỗi ấn tượng. Từ “cuồn cuộn” thiên về tượng hình, gợi hình ảnh những đợt sóng- gió-nước-đá cứ liên tiếp nối nhau, gối vào nhau liên tục không ngừng gợi sự mạnh mẽ, dữ dội của thiên nhiên. Từ láy “gùn ghè” và hình ảnh so sánh mang đậm sắc thái nhân hóa về sóng,gió “cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy” đã thể hiện sự hung hãn, lì lợm, cường bạo của dòng sông ngày đêm hăm dọa, uy hiếp con người. Người cầm bút cũng đồng thời khẳng định rằng khi đi qua quãng sông này không ai được phép khinh suất, bởi nếu thiếu thận trọng – cái giá phải trả có thể sẽ rất đắt.
Luận điểm 3: Những cái hút nước khủng khiếp
Trong những trang viết đẩy bản sắc văn hóa của mình – “Dagestan của tôi”, R.Gamzatov đã viết: “Người hạ bút làm thơ viết văn mà không am hiểu ngôn ngữ thì chẳng khác gì anh chàng mất trí lao xuống dòng sông cuồn cuộn mà không biết bơi”. Hiểu được điều kiện tiên quyết để làm nên tư chất nhà văn chính tà ngôn từ độc đáo, sáng tạo, Nguyễn Tuân đã huy động vốn từ giàu hình ảnh của mình để miêu tả sự ngang tàng, dữ tợn ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La với những hút nước nguy hiểm chết người. “Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông chuẩn bị làm móng cầu”. Từ “bỗng” cho thấy mặt nước sông bất ngờ xuất hiện những cái xoáy tròn. Hình ảnh so sánh “những cái hút nước giống như cái giếng bê tông” khắc họa cái hút nước như một cái giếng sâu không thể thấy điểm tận cùng, càng khiến ta dễ cảm thấy lo lắng, sợ hãi trước những hiểm nguy không báo trước. Được ví von với những cái xoáy nước đầy hung bạo, rõ ràng cái giếng bê tông ở đây không phải hình ảnh giếng lãng mạn, nhẹ nhàng trong tuổi thơ hay trong tình yêu lứa đôi như nhiều câu ca dao, dân ca – mà giống như miệng một con thủy quái khổng lồ đang chờ đợi để “nuốt chửng” tất cả những thuyền nào dám đi qua khúc này. Thanh âm của “nước giếng” cũng không hề dễ chịu “thở và kêu như cái cửa cống cái bị sặc”, tiếng rất to,khó chịu, tạo cảm giác rợn người khi đi qua khúc ấy. Nó giống như một lời cảnh cáo cho những kẻ ngoan cường và ngoan cố dám chinh phục quãng này. Phép nhân hóa dường như không có mục đích khiến sự vật trở nên gần gũi, thân thuộc, sinh động như trong các ý văn miêu tả thường thấy mà ngược lại, khiến các hút nước càng trở nên đáng sợ như thể có tâm địa riêng như một con người. Người nghệ sĩ tài hoa đã kết hợp phép nhân hóa và những từ ngữ giàu sức gợi hình để khắc họa chân dung những cái hút nước: “lừ lừ”, “ặc ặc”, “nghênh ngang”, “lôi tuột”, “trồng cây chuối ngược”, “vụt biến đi”, “tan xác”, để nhấn mạnh vào hiểm nguy mà những cái hút nước ấy có thể đem lại, làm hiện ra hình ảnh của một con thủy quái đang gầm gừ đến ghê người. Hình ảnh liên tưởng “ thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực” nếu không sẽ gặp nguy hiểm, bởi lẽ “Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sâu đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.” Để gây ấn tượng sâu rộng với độc giả về những cái hút nước sông Đà, nhà văn còn tạo ra được một giả tưởng, dẫn dụ người đọc vào trò chơi cảm giác mạnh để cảm nhận. Tưởng tượng có một người quay phim dũng cảm, dám ngồi vào chiếc thuyền thúng cùng với một máy quay phim xuống đáy hút sông Đà rồi quay ngược lên, thước phim thu được là một cái giếng nước sâu chênh nhau với mặt sông đến vài sải, thành giếng xây toàn bằng nước xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày. “Thành giếng” ấy không đứng im mà luôn chuyển động tạo cảm giác như cả khối pha lê xanh ấy sắp vỡ tan, đổ ụp cả vào người quay phim lẫn người xem, người xem phim ký sự ấy sợ hãi, đến mức tay ghì chiếc ghế như cảm thấy mình như đang ghì lấy mép một chiếc lá rừng vừa bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn. Bằng thủ pháp điện ảnh, Nguyễn Tuân đã miêu tả một cách sinh động, ấn tượng về những cái hút nước, đem đến cho người đọc cảm giác sợ hãi, chân thực của một người khi phải đứng trong lòng một khối pha lê xanh mà bất cứ lúc nào cũng có thể đổ ụp vào được. Bằng biện pháp so sánh, nhân hóa bằng những liên tưởng, tưởng tượng phong phú, sáng tạo, sử dụng tri thức của các ngành nghề như xây dựng, cầu đường, điện ảnh, người nghệ sĩ NT đã miêu tả thành công những cái hút nước sông Đà.
Luận điểm 4: Thác đá sông Đà
Là một “hiện thân của cái định nghĩa về người nghệ sĩ”, Nguyễn Tuân đã khẳng định phong cách độc đáo, tài hoa của mình trong từng hình ảnh mà ông miêu tả. Từ xa, thác đá Sông Đà hiện lên qua âm thanh “Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng.”. Bằng biện pháp nghệ thuật nhân hóa “tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên”, dù chưa hiện ra trước mắt người đọc, chỉ qua âm thanh ta đã thấy thác nước SĐ thực sự là một sinh thể sống đang giận dữ, gầm gào, đe dọa con người. Các sắc điệu của âm thanh “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”, câu văn sử dụng một hệ thống từ ngữ gợi tả âm thanh theo những cung bậc tăng dần cả về sắc thái cảm xúc lẫn âm lượng vừa gợi ta khoảng cách ngắn gần giữa người quan sát với thác đá vừa cho thấy sự phức tạp trong thâm tâm của con thác, thác đá sông Đà như một kẻ đa nhân cách thật khó lường. Phép so sánh được tạo ra từ trí liên tưởng tưởng tượng phong phú “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng.” gợi tả âm thanh man dại đáng sợ của thác đá, càng ta ghê rợn hơn khi nghe âm thanh ấy giữa đại ngàn Tây Bắc hoang vu, rừng thiêng nước độc. Đến gần, thác đá SĐ gây ấn tượng bởi hình ảnh: “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”. Tính từ “trắng xóa” gây ấn tượng về sóng nước, bọt nước trào sôi mãnh liệt, gợi tả làn hơi nước như mờ đi trên mặt sóng, kết hợp với hình ảnh “chân trời đá” làm hiện ra sự hùng vĩ tới choáng ngợp của thác đá sông Đà, đá chập chùng đến hút tầm mắt.
Đá thác Đà giang không hiền lành từ ngàn năm nay vẫn mai phục hết trong lòng sông, nó còn biết bày thạch trận trên sông để đối phó với người lái đò. Đến với trùng vi thạch trận thứ nhất, Sông Đà đã bày ra năm cửa trận, bốn cửa tử và một cửa sinh, trong đó “cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn”. Một đội quân đá dàn binh bố trận với nào “đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang”, với “hàng tiền vệ có hai hòn canh một cửa đá”, trông như là sơ hở duy nhất, vậy mà chúng lại được giao nhiệm vụ dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa – cửa tử. Những đá những nước phối hợp reo hò làm thanh viện, ẩm ĩ cả một khúc sông, quyết để đối phương là ông lái đò phải hao hụt ý chí. Một trận đánh ngang tàng không cần sức, nơi thủy quái Sông Đà cùng đám tay sai kênh kiệu “hất hàm” và lúc nào cũng “thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào”. Ở trùng vi thạch trận thứ hai, mãnh tướng hung bạo đã “tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn”. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh đang đánh khuýp quật vu hồi chiếc thuyền bé nhỏ. Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông lái đò, vẫn nhiệt tình hò vang ngày càng dữ dội hơn nữa. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử “vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”. Thủy quái Sông Đà cùng đám tay sai ngỗ ngược của nó có lễ quyết không chịu thua người lái đò nhỏ bé trên chiếc thuyền mỏng manh kia, chúng quyết định tạo thêm một vòng vây thứ ba kiên cố nhất. Trùng vi này “ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”. Khi ấy, “nhiệm vụ của những boong-ke chìm và pháo đài nổi” phải đánh tan con thuyền, cứ phóng thủng thuyền mà chọc thủng. Sông Đà đã trở thành một mãnh tướng lẫm liệt, quyết giành sự cai trị về mình nhưng sau cùng cả đội quân thác đá hùng hậu ấy vẫn không thắng nổi người lái đò tài hoa. Dưới ngòi bút tài hoa uyên bác của “bậc thầy chữ nghĩa Nguyễn Tuân”, dòng Sông Đà đã hiện ra với nhiều dáng vẻ khác nhau, nhưng tất cả đều toát lên cái vẻ hùng vĩ, hung bạo và sức mạnh của thiên nhiên kỳ vĩ miền Tây Bắc.
Đánh giá
Những trang văn chứa đựng vốn văn hoá, vốn từ vựng giàu có, trí tưởng tượng bay bổng đi kèm ngôn từ góc cạnh, gợi hình và độc nhất khiến người đọc thoả sức đắm chìm trong khung cảnh hỗn chiến cùng âm thanh, hình ảnh chân thực của thác, đá, sóng, gió. Dưới ngòi bút sáng tạo của mình, Người thợ kim hoàn của chữ đã biến một dòng sông tưởng chừng như vô tri vô giác lại trở nên có hồn, tính cách, con sông Đà ở thượng nguồn hung bạo, hùng vĩ hiện lên trong tâm trí người đọc một hình tượng độc đáo, như thủy quái hung hãn, bạo ngược, sẵn sàng bày thạch trận và tạo nên những trường âm thanh dữ dội để thử thách ý chí của con người lao động, cũng cho thấy sức mạnh của con người có thể chiến thắng thiên nhiên. Đồng thời, nhà văn đã lĩnh hội và vận dụng tài tình kiến thức phong phú trên nhiều lĩnh vực khác nhau, điều này tạo ra một cái nhìn toàn cảnh cho người thưởng thức.
Kết bài Phân tích tính hung bạo của con sông Đà
Khép lại những trang văn đặc sắc của Nguyễn Tuân, lòng ta như dấy lên những cảm xúc khó tả cùng mong muốn một lần trông thấy dòng sông hung bạo và kỳ vĩ ấy- nay đã trở thành một phần không thể thiếu trong việc góp xây cho Thủy điện Hòa Bình, đem những thác đá oai hùng ấy để mang hạnh phúc đến cho nhiều gia đình, cho nhân dân và đất nước. Đó là “vàng trắng” quý báu của đất nước chúng ta. Điều đó cũng có nghĩa là nhà văn nghĩ tới vai trò, vị trí của sông Đà trong sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước. Trên từng trang tùy bút của Nguyễn Tuân khi miêu tả về tính cách hung bạo, dữ dội của sông Đà, ta như nghe thấy một cuộc chuyện trò riêng của người lữ khách và dòng sông, cảm nhận sâu sắc về tình yêu thiên nhiên, đất nước nơi nhà văn “Vang bóng một thời” gửi gắm vào quá trình quan sát, miêu tả. “Người lái đò Sông Đà” tựa lời nhắn nhủ về sứ mệnh của người trẻ hôm nay, trong hành trình gìn giữ và bảo vệ thiên nhiên, non sông, tổ quốc; cùng trân quý cảnh đẹp đất nước qua từng dòng văn của “người cho máu” độc đáo, vô song.
Qua nội dung chia sẻ trên, hy vọng sẽ giúp ích nhiều cho các bạn để ôn thi thpt Văn quốc gia nhé!
Nguồn: Sưu tập