Cùng tham khảo nội dung về Phân tích đánh giá đặc điểm của thể loại bi kịch trong Vũ Như Tô được Onthidgnl chia sẻ sau đây. Ngoài ra, các em tham khảo thêm Nghị luận phân tích đánh giá tác phẩm kịch được chia sẻ trước đó. Các em tham khảo để có kỹ năng làm bài văn nghị luận văn học 600 chữ đạt điểm cao nhé.
Mục lục
Viết bài văn (khoảng 600 chữ) phân tích, đánh giá đặc điểm của thể loại bi kịch (nhân vật chính, xung đột, ngôn ngữ, hiệu ứng thanh lọc,…) thể hiện trong đoạn trích sau:
(Giới thiệu: Vũ Như Tô là một kiến trúc sư thiên tài. Để ăn chơi hưởng lạc, hôn quân Lê Tương Dực đã bắt ông xây dựng Cửu Trùng Đài. Vũ Tổ Như kiên quyết chối từ dù bị đe dọa đến tính mạng. Cung nữ Đan Thiềm đã thuyết phục ông chấp nhận yêu cầu, lợi dụng tiền bạc và quyền lực của hôn quân để xây dựng cho đất nước toà đài hoa lệ. Nhưng xây Cửu Trùng Đài vô cùng tốn kém; nhân dân phải chịu sưu cao thuế nặng, đói rét, lầm than…..điều đó khiến người dân vô cùng oán hận. Quận công Trịnh Duy Sản dấy binh, lôi kéo thợ làm phản, giết Lê Tương Dực, Vũ Như Tô, Đan Thiềm và thiêu huỷ Cửu Trùng Đài).
Đoạn trích sau là đối thoại giữa Đan Thiềm thuyết phục Vũ Như Tô.
Hồi thứ nhất – Lớp VII
Đan Thiềm – Vũ Như Tô
ĐAN THIÊM: Thảo nào mà nước ta không có lấy một lâu đài nào ra hồn, khả dĩ sánh với những lâu đài Trung Quốc. Ngay cả Chiêm Thành cũng hơn ta nhiều lắm…
VŨ NHƯ TÔ: Tôi bẩm sinh có khiếu về kiến trúc. Tôi đã học văn, sau bỏ văn tập nghề, nhưng tập thì tập, vẫn lo nơm nớp, chỉ sợ triều đình biết thì vợ con ở nhà nheo nhóc, mà mình cũng không biết bao giờ được tháo cũi sổ lồng. Vua Hồng Thuận ngày nay càng khinh rẻ chúng tôi, cách đối đãi lại bạc ác. Chẳng qua là cái nợ tài hoa, chứ thực ra theo nghề ở ta lại chẳng có mà nhục thì nhiều.
ĐAN THIẾM: Chính vì thế mà ông càng đáng trọng.
VŨ NHƯ TÔ: Trọng để làm gì? Tìm danh vọng chúng tôi đã chẳng chọn nghề này. Đời lẩn lút…
ĐAN THIỀM: Vậy thì các ông luyện nghề làm gì, luyện mà không đem ra thi thố?
VŨ NHƯ TÔ: Đó là nỗi khổ tâm của chúng tôi. Biết đa mang là khổ nhục mà không sao bỏ được. Như bóng theo hình. Chúng tôi vẫn chờ dịp.
ĐAN THIỀM: Dịp đấy chứ đâu? Cửu Trùng Đài…
VŨ NHƯ TÔ: Bà đừng nói nữa cho tôi thêm đau lòng. Ngày ngày, tôi thấy các bạn thân bị bắt giải kinh, người nhà khóc như đưa ma. Còn tôi, mong manh tin quan đến bắt, tôi đem mẹ già, vợ và hai con nhỏ đi trốn. Được một năm có kẻ tố giác, quan địa phương đem lính tráng đến vây kín nơi tôi ở. Tôi biết là tuyệt lộ, mặc cho họ gông cùm. (Chàng rơm rớm nước mắt) Mẹ tôi chạy ra bị lính đẩy ngã, chết ngay bên chân tôi. Bọn sai nha lộng quyền quá thể. Rồi tôi bị giải lên tỉnh, từ tỉnh lên kinh, ăn uống kham khổ, roi vọt như mưa trên mình, lắm khi tôi chết lặng đi. Mẹ cháu lẽo đẽo theo sau, khóc lóc nhếch nhác, tôi càng đau xót can tràng. Cũng vì thế mà tôi thề là đành chết chứ không chịu làm gì.
ĐAN THIỀM: Cảnh ngộ của ông thì đáng thương thực. Nhưng ông nghĩ thế thì không được.
VŨ NHƯ TÔ: Sao vậy?
ĐAN THIÊM: Không được. Vì đức Hồng Thuận sẽ bắt ông chịu cực hình và còn đem tru di chín họ nhà ông. Ông đã tu được bao nhiêu công quả mà phạm vào tội đại ác ấy?
VŨ NHƯ TÔ: Tài đã không được trọng thì đem trả trời đất. Đó là lẽ thường. Cũng như nhan sắc…
ĐAN THIỀM: Không thể ví thế được, sắc vất đi được, nhưng tài phải đem dùng.
VŨ NHƯ TÔ: Bà đã thương tài xin giúp cho tôi trốn khỏi nơi này. Ơn đó xin…
ĐAN THIỀM: Tôi giúp cũng không khó gì. Nhưng ra khỏi chốn này liệu ông có thoát hẳn được không? Hơn nữa, cái vạ tru di cửu tộc vẫn còn trờ trờ ra đó. Ông đừng tính nước ấy, không nên.
VŨ NHƯ TÔ: Vậy bà khuyên tôi nên ở đây làm việc cho hôn quân sao?
ĐAN THIỀM: Miễn là ông không bỏ phí tài trời. Ông nên lợi dụng cơ hội đem tài ra thi thố.
VŨ NHƯ TÔ: Xây Cửu Trùng Đài?
ĐAN THIỀM: Phải.
VŨ NHƯ TÔ: Xây Cửu Trùng Đài cho một tên bạo chúa, một tên thoán nghịch, cho một lũ gái dâm ô? Tôi không thể đem tài ra làm một việc ô uế, muôn năm làm bia miệng cho người đời được.
ĐAN THIỀM: Ông biết một mà không biết hai. Ông có tài, tài ấy phải đem cống hiến cho non sông, không nên để mục nát với cỏ cây. Ông không có tiền, ông không có thể dựng lấy một tòa đài như ý nguyện. Chấp kinh, phải tòng quyền. Đây là lúc ông nên mượn tay vua Hồng Thuận mà thực hành cái mộng lớn của ông… Ông khẽ tiếng. Đó là tiểu tiết. Ông cứ xây lấy một tòa đài cao cả. Vua Hồng Thuận và lũ cung nữ kia rồi mất đi nhưng sự nghiệp của ông còn lại về muôn đời. Dân ta nghìn thu được hãnh diện, không phải thẹn với những cung điện đẹp nước ngoài, thế là đủ. Hậu thế sẽ xét công cho ông, và nhớ ơn ông mãi mãi. Ông hãy nghe tôi làm cho đất Thăng Long này thành nơi kinh kỳ lộng lẫy nhất trần gian.
VŨ NHƯ TÔ: Đa tạ. Bà đã khai cho cái óc u mê này. Thiếu chút nữa, tôi nhỡ cả. Những lời vàng ngọc tôi xin lĩnh giáo. Trời quá yêu nên tôi mới được gặp bà.
ĐAN THIỀM: Tôi cũng may được gặp ông. Xin ông cố đi. Đức vua ngự tới…
Lê Tương Dực vào.
(Nguyễn Huy Tưởng, Vũ Như Tô, in trong Tuyển tập Nguyễn Huy Tưởng,
NXB Sân khấu Hà Nội, 2006, tr. 35-39)
Cách làm bài:
Các bước
Kĩ năng; nội dung cần lưu ý
Bước 1: Chuẩn bị viết
Tìm hiểu đề bài; Đọc lại văn bản, đoạn trích
– Đọc và tìm hiểu đề bài:
+ Xác định yêu cầu của đề: Đề yêu cầu phân tích và đánh giá đặc điểm của bi kịch trong đoạn trích.
+ Xác định phạm vi: Phân tích đoạn trích trên về các yếu tố như nhân vật, xung đột, lời thoại, và hiệu ứng thanh lọc.
– Đọc lại đoạn trích:
+ Ghi chú những chi tiết quan trọng: Tính cách của Vũ Như Tô và Đan Thiềm, xung đột giữa tài năng và hoàn cảnh, giữa khát vọng nghệ thuật và thực tế.
+ Nhận diện cao trào: Cuộc đối thoại xoay quanh việc thuyết phục Vũ Như Tô sử dụng tài năng dù phải phục vụ hôn quân, đặt nền tảng cho bi kịch của nhân vật chính.
– Tìm hiểu đặc điểm của thể loại bi kịch:
+ Xung đột kịch: Là yếu tố trung tâm của bi kịch, tạo nên sự giằng xé nội tâm hoặc đối kháng giữa nhân vật và hoàn cảnh.
Ví dụ: Xung đột trong đoạn trích là giữa khát vọng nghệ thuật của Vũ Như Tô và hiện thực phải phục vụ hôn quân.
+ Hiệu ứng thanh lọc: Khán giả sẽ được trải qua cảm xúc đau khổ, dằn vặt cùng nhân vật và được giải tỏa qua sự thăng hoa về tư tưởng hoặc cảm xúc.
+ Lời thoại: Nhân vật chủ yếu bộc lộ suy nghĩ và tính cách thông qua đối thoại, thể hiện sâu sắc các mâu thuẫn tư tưởng.
+ Tính khúc chiết, cô đọng: Câu chuyện phát triển chủ yếu thông qua hành động và đối thoại, không sa đà vào miêu tả dài dòng như tiểu thuyết.
Bước 2: Tìm ý, lập dàn ý
* Tìm ý cho bài viết
– Về nội dung và tư tưởng:
+ Thông điệp chính của đoạn trích là gì?
+ Xung đột trong kịch thể hiện điều gì về con người và xã hội?
– Về nhân vật:
+ Tính cách của Vũ Như Tô và Đan Thiềm có gì nổi bật?
+ Xung đột nội tâm của Vũ Như Tô phản ánh điều gì về bi kịch của tài năng?
– Về nghệ thuật:
+ Lời thoại của các nhân vật mang tính triết lý như thế nào?
+ Tình huống và cao trào trong đoạn trích có tạo ra hiệu ứng kịch tính và hấp dẫn không?
+ Hiệu ứng thanh lọc được thể hiện qua cảm xúc của khán giả như thế nào?
* Lập dàn ý
1. Mở bài:
– Giới thiệu tác giả và tác phẩm: Nguyễn Huy Tưởng là nhà văn nổi tiếng với các tác phẩm giàu ý nghĩa triết lý và nhân văn. Vũ Như Tô là một bi kịch về khát vọng nghệ thuật và bi kịch của tài năng bị lầm đường.
– Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích thể hiện sâu sắc những đặc điểm của bi kịch qua nhân vật, xung đột, lời thoại và hiệu ứng thanh lọc.
2. Thân bài:
2.1 Phân tích nội dung và xung đột kịch:
– Tóm tắt tình huống: Vũ Như Tô có tài năng kiến trúc phi thường, nhưng bị giằng xé giữa việc thi thố tài năng hay từ bỏ vì không muốn phục vụ hôn quân.
– Xung đột chính:
+ Giữa tài năng và hoàn cảnh: Vũ Như Tô muốn sử dụng tài năng cho lý tưởng cao đẹp, nhưng điều đó buộc ông phải thỏa hiệp với một hôn quân.
+ Giữa khát vọng cá nhân và hiện thực: Ông sợ rằng việc xây Cửu Trùng Đài sẽ biến mình thành kẻ ô nhục trước lịch sử, dù đó là cơ hội để thi thố tài năng.
2.2 Phân tích nhân vật và bi kịch cá nhân:
– Vũ Như Tô: Là một nhân vật bi kịch vì ông có tài năng lớn nhưng lại rơi vào hoàn cảnh éo le, nơi tài năng của ông không được trọng dụng đúng cách.
+ Mâu thuẫn nội tâm: Ông bị giằng xé giữa lòng trung thực với bản thân và khát vọng cống hiến cho nghệ thuật.
+ Đan Thiềm: Là người có tầm nhìn xa, hiểu được giá trị của tài năng và thuyết phục Vũ Như Tô sử dụng cơ hội để thực hiện lý tưởng. Tuy nhiên, sự thuyết phục của bà cũng là nguyên nhân dẫn đến bi kịch cho cả hai.
2.3. Phân tích nghệ thuật xây dựng kịch:
– Tình huống hấp dẫn và cao trào: Đoạn đối thoại là cao trào khi Vũ Như Tô đứng trước lựa chọn sống còn: hoặc từ bỏ tài năng hoặc phục vụ cho bạo chúa.
– Lời thoại mang tính triết lý:
+ “Tài đã không được trọng thì đem trả trời đất.” – Câu thoại thể hiện nỗi đau của tài năng không được công nhận.
+ “Tài phải đem dùng, không nên để mục nát với cỏ cây.” – Thể hiện tư tưởng của Đan Thiềm về việc cống hiến cho xã hội dù trong hoàn cảnh nào.
– Hiệu ứng thanh lọc: Khán giả cảm thấy đồng cảm với nỗi đau và sự giằng xé của Vũ Như Tô, từ đó trải nghiệm sự giải tỏa cảm xúc qua bi kịch.
2.4. Đánh giá giá trị của đoạn trích và tác phẩm:
– Giá trị nhân văn: Tác phẩm đề cao tài năng, khát vọng cống hiến và đặt ra câu hỏi lớn về mối quan hệ giữa tài năng và quyền lực.
– Giá trị nghệ thuật: Lời thoại súc tích, giàu triết lý; tình huống kịch hấp dẫn, chứa đựng xung đột sâu sắc.
– Ý nghĩa thời đại: Bi kịch của Vũ Như Tô vẫn còn ý nghĩa trong xã hội hiện đại, khi con người đối diện với những lựa chọn giữa lý tưởng và thực tế.
III. Kết bài:
– Khẳng định lại giá trị của đoạn trích: Đoạn trích đã thể hiện đầy đủ các đặc điểm của bi kịch thông qua nhân vật, xung đột và lời thoại.
– Bài học và cảm nhận cá nhân: Tác phẩm nhắc nhở người đọc về giá trị của tài năng và sự khó khăn trong việc tìm đúng con đường để cống hiến.
Bước 3: Viết bài
– Mở bài: Viết ngắn gọn, đi thẳng vào vấn đề hoặc giới thiệu vấn đề gián tiếp, tạo cảm giác thu hút.
– Thân bài:
+ Trình bày các luận điểm rõ ràng, mỗi luận điểm là một đoạn văn.
+ Dùng dẫn chứng cụ thể từ lời thoại và tình huống để minh họa cho các ý phân tích.
+ Kết nối các ý mạch lạc, có sự chuyển ý rõ ràng giữa các đoạn.
– Kết bài: Nhấn mạnh thông điệp tư tưởng và cảm nhận của người viết.
Bài viết:
Nguyễn Huy Tưởng, một nhà văn nổi tiếng với những tác phẩm giàu ý nghĩa triết lý và nhân văn, đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc qua bi kịch Vũ Như Tô. Tác phẩm là câu chuyện về khát vọng nghệ thuật lớn lao và bi kịch của tài năng bị lầm đường. Trong đoạn trích, thông qua nhân vật, xung đột, lời thoại và hiệu ứng thanh lọc, tác giả đã thể hiện sâu sắc những đặc điểm của thể loại bi kịch.
Vũ Như Tô, một kiến trúc sư tài hoa, bị giằng xé giữa hai lựa chọn: từ bỏ tài năng của mình để sống lẩn lút hoặc chấp nhận phục vụ cho hôn quân Lê Tương Dực để xây dựng Cửu Trùng Đài. Xung đột chính ở đây là giữa tài năng và hoàn cảnh: Vũ Như Tô có lý tưởng cao đẹp nhưng chỉ có thể thực hiện nếu thỏa hiệp với một kẻ bạo chúa. Đây cũng là cuộc đối đầu giữa khát vọng cá nhân và hiện thực tàn khốc. Nhân vật luôn lo sợ việc xây dựng Cửu Trùng Đài sẽ khiến ông bị lên án là kẻ ô nhục, dù đó là cơ hội để thi thố tài năng và để lại dấu ấn cho hậu thế.
Bi kịch cá nhân của Vũ Như Tô thể hiện rõ ràng qua sự giằng xé nội tâm. Vũ Như Tô là một nhân vật đầy mâu thuẫn. Tài năng lớn của ông không được trọng dụng đúng cách, mà lại bị đẩy vào một hoàn cảnh oái oăm. Từ lâu, ông chỉ muốn được sống một đời bình lặng nhưng lại bị cuốn vào vòng xoáy của quyền lực và tài năng. Khi Đan Thiềm – một cung nữ có tầm nhìn xa trông rộng – thuyết phục ông chấp nhận cơ hội này, mâu thuẫn trong ông càng trở nên sâu sắc. Đan Thiềm tin tưởng tài năng của Vũ Như Tô và khuyến khích ông không nên để nó “mục nát với cỏ cây.” Tuy nhiên, chính sự thuyết phục này lại vô tình dẫn đến bi kịch đau thương cho cả hai: họ bị giết, Cửu Trùng Đài bị thiêu huỷ, và giấc mộng nghệ thuật của Vũ Như Tô tan thành mây khói.
Về mặt nghệ thuật, đoạn trích được xây dựng với tình huống hấp dẫn và đầy cao trào. Cuộc đối thoại giữa Vũ Như Tô và Đan Thiềm là điểm bùng nổ, khi Vũ Như Tô đứng trước sự lựa chọn: hoặc từ bỏ tài năng, hoặc dùng nó để phục vụ cho một kẻ bạo chúa. Lời thoại của cả hai không chỉ là những lời đối đáp thông thường mà chứa đựng nhiều triết lý sâu sắc về cuộc sống, tài năng, và khát vọng cống hiến. Lời của Vũ Như Tô “Tài đã không được trọng thì đem trả trời đất” là tiếng kêu đau đớn của một người có tài năng nhưng lại không được trọng dụng. Trong khi đó, lời của Đan Thiềm “Tài phải đem dùng, không nên để mục nát với cỏ cây” thể hiện quan điểm của bà về việc tài năng cần được cống hiến cho xã hội, dù trong hoàn cảnh nào.
Hiệu ứng thanh lọc (catharsis) được thể hiện qua nỗi đau và sự giằng xé của Vũ Như Tô, giúp khán giả trải nghiệm cảm giác đồng cảm và giải tỏa cảm xúc. Họ không chỉ thấy thương cảm cho Vũ Như Tô mà còn suy ngẫm về thân phận của người tài trong xã hội. Qua đó, tác giả đã giúp người đọc cảm nhận và suy ngẫm sâu sắc hơn về giá trị của tài năng, khát vọng cống hiến và bi kịch của những người không tìm được đúng con đường để thể hiện tài năng của mình.
Giá trị nhân văn của đoạn trích nằm ở chỗ tác giả đề cao tài năng và lý tưởng cống hiến cho đất nước. Tác phẩm đặt ra một câu hỏi lớn về mối quan hệ giữa tài năng và quyền lực: liệu một người có thể thực hiện ước mơ của mình trong hoàn cảnh không thuận lợi mà không làm tổn thương lý tưởng? Nghệ thuật của đoạn trích nằm ở lời thoại súc tích, giàu triết lý và tình huống kịch cao trào, thu hút người đọc từ đầu đến cuối.
Tóm lại, đoạn trích đã thể hiện đầy đủ các đặc điểm của bi kịch qua nhân vật, xung đột và lời thoại. Qua đó, Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng không chỉ là một câu chuyện bi kịch về một kiến trúc sư tài năng mà còn là một tác phẩm có giá trị sâu sắc, giúp người đọc hiểu thêm về sự phức tạp của cuộc sống và giá trị của tài năng. Tác phẩm nhắc nhở chúng ta về sự khó khăn trong việc theo đuổi lý tưởng và cống hiến, đặc biệt khi phải đối diện với thực tế phũ phàng.
Bước 4: Chỉnh sửa, hoàn thiện
– Đọc lại yêu cầu của đề bài và với dàn ý đã lập để thực hiện những chỉnh sửa cần thiết nhằm hoàn thiện về mặt nội dung.
– Rà soát lỗi chính tả, ngữ pháp, diễn đạt và trình bày để bài viết đáp ứng được những đòi hỏi về chuẩn mực hình thức.
Xem thêm:
Hướng dẫn viết bài nghị luận văn học 600 chữ
Hướng dẫn viết mở bài nghị luận Văn học
Kỹ năng viết đoạn văn nghị luận văn học
60 Mẫu mở bài nghị luận xã hội và hướng dẫn viết mở bài NLXH
…
Hy vọng bài viết “Phân tích đánh giá đặc điểm của thể loại bi kịch trong Vũ Như Tô”… này sẽ là nguồn tài liệu giúp các bạn học sinh nắm vững kiến thức và tự tin làm bài hơn trong môn ngữ văn ôn thi THPT. Hãy cùng nhau khám phá và luyện tập để chuẩn bị thật tốt cho kỳ thi sắp tới, đạt điểm cao nhé! Chúc các bạn thành công!
Theo dõi MXH của Onthidgnl để update nhiều tài liệu miễn phí nhé:
FB: https://www.facebook.com/onthidgnlcom
Group: https://www.facebook.com/groups/2k7onthidgnl
Threads: https://www.threads.net/@onthidgnl2k7