Cùng Onthidgnl tham khảo đề bài:” Phân tích Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà – Nguyễn Tuân. Nội dung giúp các em học tập hiệu quả và làm bài Phân tích Người lái đò sông Đà hay nhất và đạt điểm cao nhé!
Tham khảo Chất vàng mười trong thiên tùy bút Người lái đò sông Đà
Non sông gấm vóc Việt Nam được tạo nên từ trăm ngàn con sông lớn nhỏ. Từ những dòng sông ở đồng bằng mang đến bao phù sa màu mỡ đến những con sông ở miền núi cao với tiềm năng thủy điện, chúng đều có những vẻ đẹp riêng. Với Nguyễn Tuân – nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp – ông lại bị cuốn hút bởi một con sông đặc biệt: sông Đà. Vẻ đẹp của sông Đà được Nguyễn Tuân xem là “thứ vàng mười của màu sắc núi sông Tây Bắc”.
Vàng mười không chỉ đẹp mà còn rất có giá trị. Trước hết, ta phải hiểu chữ “vàng” trong câu nói của nhà văn không ứng với nghĩa đen. Ở đây, nhà văn muốn mượn của vàng vẻ đẹp và sự quý giá của nó để nói đến vẻ đẹp và quý giá của sông núi và tài trí con người lao động. Nhưng vẻ đẹp và sự quý giá ấy không dễ tìm thấy, mà nó còn đang náu mình trong những vùng đất xa xôi. Nhà văn phải là người tìm kiếm, sàng lọc để phát hiện ra vẻ đẹp ấy , rồi bằng tài năng của mình mà bất tử hoá nó trong tác phẩm để “cống nạp” cho đời thường những “thỏi vàng mười” của thiên nhiên đất nước và con người.
Tham khảo: Mở bài Người lái đò sông Đà được lựa chọn từ học sinh giỏi
Với một tình yêu lớn lao đối với Tổ quốc và nhân dân mình và bằng cảm hứng lãng mạn, bằng phép thuật ngôn từ, Nguyễn Tuân đã đem đến cho ta “chất vàng” quý giá của đời và làm giàu – làm sang cho tâm trí của chúng ta khiến ta biết yêu hơn con người và biết quý hơn thiên nhiên, đất nước mình.
Sông Đà đẹp, nhưng lại mang một vẻ đẹp rất khác, đầu tiên nằm ở hướng chảy của nó. Ngày từ đầu tác phẩm, Nguyễn Tuân đã trích hai câu thơ của Nguyễn Quang Bích:
“Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu”.
Trong khi mọi dòng sông đều chảy về hướng đông thì sông Đà ung dung ngược về phương bắc, chỉ riêng mình nó chảy về phương bắc mà thôi. Có lẽ vì vậy mà con sông này có đến hai nét tính cách riêng biệt: hung bạo nhưng cũng rất đỗi trữ tình.
Sông Đà trước tiên là dòng sông lắm thác nhiều ghềnh. Cái hùng vĩ của nó được thể hiện qua những tảng đá ven bờ được dựng thành vách. Vách cao đến nỗi “mặt sông chõ ấy chỉ lúc chính ngọ mới có mặt trời”. Thậm chí, nói còn “chẹt òng sông như một cái yết hầu”. Ở đây, Nguyễn Tuân đã sử dụng biện pháp liên tưởng, so sánh rất thành công, tái hiện lại cho người đọc được độ cao của vách đá cũng như sự âm u đáng sợ của sông Đà. Tiếng gầm thét của con sông nghe cúng thật đáng sợ. suốt năm suốt tháng cứ gầm ghè gào thét, “nghe như à tiếng đòi nợ xuýt” vậy, “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”. Người lái đò qua đây phải vô cùng cẩn thận nếu không thuyền sẽ bị lật ngửa lên ngay. Tác giả đã sử dụng biện pháp điệp từ khiến con sông trở nên dữ dội hơn, dồn dập hơn. Con sông Đà hung bạo còn bởi những cái hút nước chết người. Chúng như những cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu, khi thì “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”,khi thì “ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Hút nước vốn đã ghê rợn lại được nhà văn sử dụng các từ như “thở, kêu, sặc, ặc ăc” càng làm tăng thêm sự khủng khiếp của chúng. Trong phần này, Nguyễn Tuân đã chứng minh sự tài hoa uyên bác của mình bằng cách sử dụng vốn kiến thức từ nhiều lĩnh vực từ điện ảnh, âm nhạc, hội họa đến xây dựng để miêu tả sự kỳ vĩ, hung bạo của Đà giang. Có thể nói, ông là người đầu tiên so sánh nước với lửa: “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa”. Nước và lửa vốn là hai thứ có sức hủy diệt lớn, lại luôn tương khắc nhau, nay dưới ngòi bút tài ba của Nguyễn Tuân mà trở thành hai yếu tố hợp sức với nhau để tái hiện nên cái kỳ vĩ của thác nước. tiếng nước nghe “như là oán trách, rồi lại như van xin, khi thì khiêu khích, giọng gằn chế nhạo.” Tác giả đã nhân cách hóa dòng sông, biến nó thành một tạo vật trái tính trái nết, lúc nào cũng gầm gừ gào thét những âm thanh ghê rợn.
Cái hùng vĩ của sông Đà không chỉ ở thác nước mà còn ở những “trùng vi thạch trận” đầy hiểm nguy. Tác giả chia đá ở đây thành ba trùng vi thạch trận. vòng đầu tiên là “hàng tiền vệ” với bốn của tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm về phía tả ngạn dòng sông. Chúng có nhiệm vụ dụ thuyền vào giữa tuyến rồi “đánh khuýp quật vu hồi lại”. Tiếp đến là vòng thứ hai. Vòng này tăng thêm cửa tử, cửa sinh dược bố trí về hữu ngạn với những boong ke pháo đài có nhiệm vụ tiêu diệt những thuyền vượt qua vòng một. Trùng vi thứ ba thì ít cửa hơn, cửa sinh lại nằm ở chính giữa. Đi hết cửa này lòng sông bỗng trở nên thanh bình. Sông Đà hiện lên như một loài thủy quái đầy mưu mô, xảo quyệt. Những loại đá thì như những binh sĩ hung tợn, tên nào tên nấy ngỗ ngược, nhăn nhúm và hiếu chiến. Một lần nữa nhà văn lại thể hiện sự uyên bác của mình qua lĩnh vực quân sự, thể thao, võ thuật để miêu tả sông Đà. Nguyễn Tuân như một nhà thám hiểm tài ba đang kể lại cho chúng ta chuyến thủy trình đầy hiểm nguy bằng những ngôn từ, liên tưởng vô cùng sống động. Sự ghê rợn của Đà giang nghìn đời nay vốn vẫn quyết đầu với con người. Có thể nói, qua việc miêu tả thác nước song Đà, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật lên sức mạnh chế ngự tự nhiên của con người. Nhưng suy cho cùng, sự dữ dội của con sông ấy lại mang về tiềm năng thủy điện, tiềm năng kinh tế cho người dân, đất nước.
Đáng sợ là thế nhưng sông Đà cũng là một dòng sông rất trữ tình. Đi qua cái dữ dội của thác đá, sông Đà lại trở về là một dòng sông thanh bình, dịu êm. Không còn những trùng vi thạch trận đầy hiểm nguy, không còn những hòn đá ngỗ ngược, sông Đà lúc này êm đềm với những chuồn chuồn, bươm bướm. Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân. Do đó, ông hiểu cái “chất đằm đằm ấm ấm” thân quen và cái chất thơ mộng mị của cảnh sắc thiên nhiên sông Đà. Ven bờ là những bãi ngô non, là cỏ gianh, là đàn hươu thong dong gặm cỏ. Sông Đà không chỉ mang đến tài nguyên thủy điện mà còn bồi đắp phù sa màu mỡ cho núi rừng Tây Bắc. Sông Đà, trong mỗi hoàn cảnh lại có một vẻ đẹp riêng. Khi đi máy bay, có người sẽ thấy đó là “cái dây thừng ngoằn nghoèo”, có người lại thấy con sông như “một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc.” Theo cách nói của tác giả, “đối với mỗi người, sông Đà lại gơi cảm theo mọt cách khác.” Nước sông Đà đổi màu đa dạng theo thời gian. Mùa xuân, nước sông xanh màu ngọc bích, màu xanh quý phái khác hẳn sông Gâm sông Lô”. Mùa thu nước sông lại “lừ lừ chín đỏ”. Và đặc biệt, nước sông Đà chưa từng có màu đen như Thực dân Pháp “lếu láo” gọi. Rõ ràng, Nguyễn Tuân phải hiểu rất rõ về sông Đà mới đưa ra khẳng định như thế. Điều đó vừa làm tôn lên vẻ đẹp của sông Đà, vừa thầm kín thể hiện tình yêu của tác giả đối với dòng sông đặc biệt này. Sông đà còn là dòng chảy của lịch sử nước Nam ta. Bởi lẽ, từ đời Lý – Trần, Lê sơ, cảnh ven sông đều lặng lẽ như tờ. Bờ sông bấy lâu nay vẫn tĩnh lặng hoang sơ giờ đây cần được đổi mới. Giá mà có tiếng còi xe lửa mang theo sự nhộn nhịp giàu sang ở miền xuôi lên Tây Bắc thì tốt biết bao! Những câu văn của Nguyễn Tuân như những bản tình ca êm ái,vừa sống dậy những vẻ đẹp hiện đại, vừa đưa ta trở về với những miền ký ức xa xăm nay chỉ còn là vang bóng.
Nhìn sông Đà như một cố nhân, Nguyễn Tuân thể hiện cái tình cảm tri âm tri kỷ đối với dòng sông kỳ lạ này. Đối với ông, sông Đà không chỉ là mọt tạo vật thuần túy mà còn là một sản phẩm nghệ thuật cần được trân trọng, khám phá. Bằng cái nhìn độc đáo, cảm nhận tinh tế, Nguyễn Tuân đã cho chúng ta thấy “cái chất vàng mười đã qua thử lửa” có một không hai của Tây Bắc. Sông Đà không đơn thuần là một dòng sông, nó là một nhân tố làm giàu đẹp thêm tương lai đất nước.
Đọc “Người lái đò sông Đà”, ta mới thấy rõ con người suốt đời đi tìm cái đẹp của Nguyễn Tuân. Không những thế, ta càng thêm yêu thiên nhiên đất nước, say mê với vẻ đẹp tiềm tàng của núi rừng Tây Bắc thân thương. Như trong “Trường ca mặt đường khát vọng”, Nguyễn Khoa Điềm từng viết:
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gọi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…”.
Nguồn: Sưu tập