Cùng tham khảo nội dung Soạn bài Một thời đại trong thi ca (Hoài Thanh) | Văn 11 Cánh Diều được Onthidgnl chia sẻ sau đây. Các em tham khảo để chuẩn bị bài soạn văn 11 Cánh Diều được tốt nhé.
Mục lục
1. Soạn bài “Một thời đại trong thi ca” – Về tác giả và tác phẩm
1.1 Tác giả Hoài Thanh
Hoài Thanh sinh vào ngày 23 tháng 9 năm 1941, tại làng Phù Đổng, xã Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, Việt Nam. Ông thuộc thế hệ các nhà thơ ấn tượng, tiền ấn tượng nổi tiếng của Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp văn học của Hoài Thanh đã diễn ra trong bối cảnh lịch sử đầy biến động của Việt Nam trong thế kỷ 20.
Hoài Thanh đã bước chân vào thế giới văn học từ rất sớm. Ông theo học tại trường Trung học Bùi Thị Xuân ở Hà Nội, nơi ông đã bắt đầu phát triển đam mê với văn chương và thơ ca. Sự tinh tế và nhạy bén trong việc sử dụng ngôn ngữ đã thể hiện rõ qua những bài thơ đầu tiên của ông. Ông cũng tiếp tục học tại Trường Sĩ quan Lục quân ở Huế và sau đó gia nhập quân đội.
Thời gian này, Hoài Thanh đã trải qua những biến cố lớn trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Những trải nghiệm này đã ảnh hưởng đến tâm hồn và tư duy của ông và thúc đẩy ông sáng tạo ra những tác phẩm đầy tinh thần sâu lắng và triết học.
Tuy cuộc đời của Hoài Thanh đầy khó khăn và gian khổ, nhưng ông vẫn tiếp tục viết thơ và tạo ra những tác phẩm nghệ thuật đầy tâm hồn. Tác phẩm “Một Thời Đại Trong Thi Ca,” xuất bản vào năm 1977, là một tác phẩm quan trọng trong sự nghiệp văn học của ông. Tác phẩm này đã đánh dấu một giai đoạn mới trong văn học Việt Nam, với việc sáng tạo một phong cách thơ mới, táo bạo và sáng tạo.
1.2 Tác phẩm Một thời đại trong thi ca
Hoàn cảnh sáng tác
“Một Thời Đại Trong Thi Ca” của Hoài Thanh là một tập thơ đặc biệt trong nền văn học Việt Nam thời kỳ đầu của thế kỷ 20. Tập thơ này ra đời trong một giai đoạn lịch sử quan trọng của Việt Nam, khi xã hội đang trải qua nhiều biến đổi về chính trị, kinh tế và văn hóa. Ngữ cảnh xã hội Việt Nam vào thời điểm đó đòi hỏi sự nhạy bén và tinh tế của các tác giả văn học để có thể thể hiện được những sự thay đổi đó.
Nội dung:
Tác phẩm này chứa trong mình những cảm xúc, trải nghiệm và tư duy của tác giả về nhiều khía cạnh của cuộc sống và văn hóa Việt Nam. Các bài thơ trong tập sách này thường nói về tình yêu, sự tự do, cuộc sống hàng ngày, cảnh thiên nhiên, và những suy tư triết học về sự tồn tại. Bức tranh mà tác phẩm vẽ nên là một xã hội đang chuyển đổi từ cõi hòa bình của thời phong kiến sang thời đại hiện đại với những cơ hội và thách thức mới. Tập thơ tập trung vào việc thể hiện tâm trạng và tâm hồn của nhân vật chính, người thơ trẻ đầy hoài bão và khát khao. Nội dung của “Một Thời Đại Trong Thi Ca” là sự tổng hợp của nhiều trải nghiệm và quan sát của tác giả về cuộc sống xã hội vào thời điểm đó. Đây là một tác phẩm thể hiện sự sáng tạo trong ngôn ngữ và hình ảnh, đồng thời thể hiện lòng đam mê và tình yêu sâu đậm của Hoài Thanh đối với nghệ thuật và thi ca.
Phong Cách Thơ:
Hoài Thanh nổi tiếng với phong cách thơ tươi đẹp, tinh tế và sâu lắng. Trong tác phẩm này, ông tiếp tục thể hiện tài năng và sự sáng tạo trong việc sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt những tình cảm phức tạp và tư duy triết học. Một đặc điểm nổi bật của phong cách thơ trong tác phẩm này là tính tượng trưng và ý tưởng sâu sắc. Hoài Thanh không chỉ viết về những trải nghiệm cá nhân mà còn áp dụng chúng để bày tỏ sự nhạy bén trong việc hiểu rõ hơn về xã hội và con người. Ông tạo ra những bức tranh thơ đầy hấp dẫn về cuộc sống hàng ngày, tổng hợp cảm xúc và tư duy phân tích.
Vai trò:
Tác phẩm này không chỉ là một bộ sưu tập thơ mà còn là một tài liệu văn học quý giá về cuộc sống và tư duy của người Việt Nam vào thời điểm đó. Nó đã giúp định hình nên một phong cách thơ mới và đặc trưng cho văn học Việt Nam trong giai đoạn đó. Vai trò chính của tác phẩm này là mở ra một không gian thơ ca đầy phong cách và nghệ thuật, thể hiện qua từng bài thơ, từng câu chữ. Tác phẩm này không chỉ là một tập thơ mà còn là một bức tranh về thời đại mà người đọc có thể nhìn thấy bản hình của chính mình. Tập thơ này còn có vai trò xã hội quan trọng. Hoài Thanh đã sử dụng từ ngôn ngữ đơn giản nhưng sâu sắc để tạo ra những bức tranh tinh tế về xã hội, nhưng không hề thiếu những phân tích sâu xa về cuộc sống, tình yêu, và cuộc chiến tranh. Tác phẩm này đã thúc đẩy độc giả suy tư về giá trị của cuộc sống và con người trong một thời kỳ đầy biến động.
2. Soạn bài Một thời đại trong thi ca sách Kết nối tri thức
2.1 Soạn bài Một thời đại trong thi ca trước khi đọc
Câu 1 trang 85 SGK Văn 11/1 Kết nối tri thức
Thông thường, việt phân biệt những đồ vật mới và những đồ vật cũ trong cuộc sống khá dễ dàng, dựa trên đặc điểm ngoại hình, vật liệu và năm sản xuất của chúng. Tuy nhiên, cũng có những khía cạnh mà việc phân biệt giữa các mới và cái cũ trở nên khó khăn. Giả sử như trong ngành đồ cổ, những đồ vật mới sản xuất lại được cố tình ngụy trang cho cũ đi nhằm chuộc lợi. Hay trong trường hợp phục chế, những món đồ cũ lại được tân trang, làm mới để tăng giá trị của chúng. Những trường hợp này đều sẽ khiến người không có chuyên môn gặp khó khăn khi phải phân biệt, lựa chọn. Nhưng khó khăn hơn cả, có lẽ là việc phân biệt những câu từ, khái niệm, nhận định, là cũ hay mới. Ví dụ như khi bạn vô tình đọc được một công thức toán học, vì chưa có nhiều chuyên môn nên bạn cho rằng công thức này là đúng. Tuy nhiên nếu đào sâu tìm hiểu, bạn có lẽ sẽ phát hiện công thức này được đưa ra từ vài chục năm trước và ngày nay đã có những công trình chứng minh nó là sai và không áp dụng được. Trong trường hợp này, việc phân biệt một công thức, khái niệm là cũ hay mới sẽ cực kỳ khó khăn nếu không có đủ chuyên môn, tri thức cũng như vốn sống. Đặc biệt, việc phân biệt tính cũ và tính mới trong văn học là điều càng khó khăn bởi đặc thù của văn học là khả năng lưu truyền lâu dài và có sức sống bền lâu.
Câu 2 trang 85 SGK Văn 11/1 Kết nối tri thức
Chúng ta có thể so sánh hai bài thơ nổi tiếng của văn học Việt Nam: “Mộng Trung Thu” của Xuân Quỳnh, một bài thơ thuộc phong trào thơ mới, và “Tràng An Quyết Chiến” của Đinh Liêt, một bài thơ thuộc thời kỳ Trung Đại, để tìm ra những điểm khác biệt giữa hai phong cách thơ này.
Khác nhau:
Thời gian và lịch sử: “Mộng Trung Thu” của Xuân Quỳnh viết về một tình huống hiện đại, không ràng buộc bởi thời gian cố định. Trong khi đó, “Tràng An Quyết Chiến” của Đinh Liêt kể về một sự kiện trong lịch sử cụ thể – trận chiến Tràng An năm 938, với bối cảnh thời Trung Đại.
Phong cách và ngôn ngữ: “Mộng Trung Thu” sử dụng ngôn ngữ hiện đại và tường thuật trực tiếp, trong khi “Tràng An Quyết Chiến” sử dụng ngôn ngữ trang trọng, cổ điển và hình tượng phong phú hơn. Dưới đây là một số trích dẫn thơ đầy đủ:
Trích từ “Mộng Trung Thu” của Xuân Quỳnh:
“Trái tim tôi rộn rã với khúc hát
Mùa trăng đã lên rồi đó em
Hãy mở cửa trái tim tặng tôi
Đêm nay có mặt em trên trần gian”
Trích từ “Tràng An Quyết Chiến” của Đinh Liêt:
“Lũ trẻ tràng an vùng nông cỏ
Dũng cảm lên tiếng chưa quen rễ
Ôm đàn xem con trâu mở cờ
Để chúa trừ quỷ dấn vào khuê”
Điểm khác biệt về cách diễn đạt, phong cách thơ:
“Mộng Trung Thu” của Xuân Quỳnh:
Bộc lộ trực tiếp tình cảm và tính cá nhân hóa: Bài thơ này tập trung vào tình cảm và cảm xúc cá nhân. Câu thơ “trái tim tôi rộn rã với khúc hát” đã thể hiện cái sự rộn ràng xuyến xao đầy phấn khích cá nhân của nhà thơ khi đối diện với tình yêu của đời mình.
Sử dụng đại từ nhân xưng “tôi”: việc sử dụng đại từ nhân xưng “tôi” tuy khá nhỏ nhặt nhưng lại là một thay đổi lớn đối với nền thơ ca Việt Nam lúc bấy giờ. Nó thể hiện mong ước được bộc lộ cái tôi cá nhân, khao khát được thể hiện tình cảm cá nhân thay vì phải che giấu như thời kỳ Trung Đại trước đó.
“Tràng An Quyết Chiến” của Đinh Liêt:
Không có cái tôi cá nhân mà chỉ có tập thể: Bài thơ này tập trung vào việc ca tụng sự hy sinh và lòng dũng cảm của một nhóm người trong một tình huống chiến đấu. Đinh Liêt sử dụng ngôn ngữ trang trọng và tôn vinh tập thể hơn là tập trung vào cá nhân.
Sử dụng hình tượng và biểu đạt gián tiếp: Bài thơ thường sử dụng hình tượng và ngôn ngữ hùng biện để tạo ra sự trang nghiêm và tôn trọng đối với chủ đề. Ngoài ra, bài thơ cũng không miểu tả trực tiếp vấn đề mà thường xuyên sử dụng các biện pháp tu từ như ẩn dụn để qua đó, miêu tả một cách độc đáo về vấn đề cần nói đến.
2.2 Soạn bài Một thời đại trong thi ca trong khi đọc
Câu 1: Chú ý vấn đề được nêu để bàn luận.
Vấn đề được bàn luận ở đây là việc so sánh giữa thơ mới và thơ cũ. Tuy nhiên, nó không đơn giản chỉ là xem xét về thời điểm sáng tác bài thơ quá khứ hay hiện tại, không đơn thuần là chỉ về ngôn từ sử dụng cũ hay mới, đặc biệt hơn thế, đó là tinh thần thơ mới, là cái hồn của bài thơ, hồn của tác phẩm. Tinh thần thơ mới, đó là sự tổng hợp của tất cả các yếu tố cấu thành nên bài thơ. Đối tượng, mục đích nhắm đến của bài thơ, chất liệu ngôn từ mà chúng sử dụng, những suy tư tình cảm mà tác giả ẩn chứa trong từng câu thơ vần chữ, v.v. Tất cả cùng hòa quyện với nhau, cùng với hơi thở của thời đại giúp tạo nền cái hồn rất riêng cho từng bài thơ cụ thể mà không ở đâu có được. Và nếu như cái hồn thơ đó hướng đến những thay đổi mới mẻ, hướng tới sự thể hiện cái tôi cá nhân, khác biệt với cái xữa cũ, ấy chính là tinh thần thơ mới.
Câu 2: Cái khó khi phân biệt rạch ròi thơ mới – thơ cũ là gì?
Thơ mới và thơ cũ không có sự phân biệt rạch ròi dễ nhận ra. Trong Thơ mới, Thơ cũ đều có những bài hay, bài dở, bài hay ít, bài dở nhiều. Đó là khó khăn phức tạp nhất. Vấn đề căn bản và cốt lõi, đó là thiếu vắng một tiêu chuẩn chung, một giá trị chung để có thể phân định rạch ròi thơ mới – thơ cũ. Và đây cũng chính là điều mà tác giả cố gắng trình bày. Hoài Thanh đã cố gắng đưa ra 1 quan điểm về một tiêu chí phân biệt thơ mới – thơ cũ và rồi dùng những bằng chứng cụ thể để chứng minh nó.
Câu 3: Tiêu chí nào được nêu để phân biệt thơ mới – thơ cũ?
Hiển nhiên rằng sẽ có nhiều tiêu chí để phân biệt thơ mới và thơ cũ. Và rằng các tiêu chí này có lúc đúng lúc sai, lúc phù hợp lúc lại không phù hợp. Vậy nên việc phân biệt thơ mới và thơ cũ vẫn là một quá trình phức tạp và khó khăn. Đối với Hoài Thanh, ông cho rằng thơ mới và thơ cũ khác nhau ở chữ “tôi” và chữ “ta”. “Ngày trước là thời chữ ta, bây giờ là thời chữ tôi”. Nói như vậy không có nghĩa rằng kể từ khi có phong trào thơ mới, chữ “tôi” mới được xuất hiện tại Việt Nam. Hai chữ “tôi” và “ta” vẫn xuất hiện và xuyên suốt chiều dài lịch sử phát triển của văn thơ Việt Nam. Tuy nhiên, cái mà Hoài Thanh muốn nhắc đến ở đây là tinh thần thơ mới. Chữ “tôi” trong tinh thần thơ mới nó đại diện cho cái tôi cá nhân, đại diện cho khao khát được bộc lộ những suy tư tình cảm, cảm xúc cá nhân một cách vô tư nhất, thoải mái nhất. Khác với ngày xưa, cái tôi cá nhân bao giờ cũng bị lép vế trước cái tôi của cả tập thể xã hội. Giờ đây, chữ “tôi” muốn được một mình nó đứng hiên ngang, tự tin và mặc sức sáng tạo ra những áng văn kiệt tác lưu truyền đời sau.
Câu 4: Chú ý cách lập luận của tác giả.
Có thể thấy luận điểm của tác giả Hoài Thanh về tinh thần thơ mới được diễn tả tả sâu sắc và logic nhưng cũng không kém phần thú vị trong phần cuối của tác phẩm “Một thời đại trong thi ca”. Đây cũng là phần thể hiện rõ nhất “Cái tôi” và “cái ta” trong thơ cũ và thơ mới. Tác giả chỉ ra về hình dáng của thơ, sự mềm mại, phép dùng từ, phép đặt câu, vần nhạc câu thơ và các chỗ ngắt nghỉ,… của thơ mới, ông chỉ ra tầm quan trọng của tinh thần thơ mới. Và chúng ta cần đi tìm sự khác nhau giữa “tôi” và “ta”. Ông cũng chỉ ra sự kế thừa trong sự phát triển của thời đại “Hôm nay đã phôi thai từ hôm qua và trong cái mới vẫn còn rớt lại ít nhiều cái cũ”. Vì để tiếp nối và phát triển theo dòng chảy của thời gian, các thời đều “phải nhìn vào đại thể” tiếp nhận và tiếp tục phát triển chất “cái cũ”.
Tinh thần thơ mới được thể hiện rõ nhất ở chứ “tôi” – “Ngày trước là thời chữ ta, bây giờ là thời chữ tôi. Nói giống nhau thì vẫn có chỗ giống nhau như chữ tôi vẫn giống chữ ta.” Cách lập luận của tác giả đi từ khái quát đến cụ thể, từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, rất mạch lạc, logic. Việc đặt vấn đề ngắn gọn, rõ ràng cùng việc sử dụng câu văn nghị luận gợi cảm, giàu chất thơ của Hoài Thanh đã giúp chúng ta nhận ra được hàm ý mà tác giả muốn nhắc đến, cũng đồng thời gây hứng thú cho người đọc.
Câu 5: Tình trạng “cái tôi” khi mới xuất hiện trong văn học Việt Nam.
Trong thời đại hoàn cảnh khi mà con người ta đã quen với “cái cũ”, nơi có sẵn một quan điểm, đoàn thể chiếm lĩnh trên mọi con đường, mọi ngóc ngách của xã hội thì quan điểm, chủ nghĩa cá nhân không được xem trọng, bị coi là nhỏ bé và thậm chí còn bị người đời bài trừ, chỉ trích lên án. Thì sự xuất hiện của “Cái tôi” tại Việt Nam là một điều quá mới mẻ, mang theo những nghi hoặc, sẽ là những khởi đầu đầy bỡ ngỡ.
“Cái tôi” của các nhà Thơ thật tội nghiệp và đáng thương vì nó đã đem đến cho tâm hồn họ nỗi buồn lạnh và bơ vơ, muốn thoát đi đâu cũng không được. “Nó như lạc vào đất khách vì nó mang theo quan niệm chưa từng thấy ở xứ này”.
Nhưng phải có những sự tiên phong mới có được những sự phát triển mạnh mẽ về sau. Trong lối suy nghĩ và quan điểm cũ thì vẫn có những người có sẵn trong mình chủ nghĩa cá nhân lớn mạnh, đi ngược với thời cuộc, dám nghĩ, dám làm, dám nói lên “Cái ta” của mình.Tác giả miêu tả “ bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu. Nó cứ luôn luôn đi theo những chữ anh, chữ bác, chữ ông đã thấy chướng. Huống bây giờ nó đến một mình!”
Cho đến khi “Cái tôi” xuất hiện, phát triển mạnh mẽ, đi ngược lại người đời để len lỏi vào trong tâm trí của con người, lúc đó họ mới đón nhận “Cái tôi” và dần dần chấp nhận sự phát triển của nó. Đây cũng là một khởi đầu mới cho sự xuất hiện và phát triển của phong trào thơ mới.
Câu 6: Những biểu hiện khác nhau của “cái tôi” trong Thơ mới.
Hình tượng về “cái tôi” trong thơ mới được tác giả khắc họa qua những câu văn sau:
– Ngày một ngày hai nó mất dần cái vẻ bỡ ngỡ. Nó được vô số người quen. Người ta lại còn thấy nó đáng thương. Mà thật nó tội nghiệp quá.
– Tâm hồn của thi nhân chỉ vừa thu xong khuôn khổ chữ “tôi”.
– Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ “tôi”. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu.
– Làm cho thơ Việt Nam buồn và xôn xao, cùng lòng tự tôn, ta mất luân cả cái bình yên thời trước.
Ban đầu, cái tôi còn bỡ ngỡ thậm chí tội nghiệp. Nhưng ngày một ngày hai nó mất dần vẻ bỡ ngỡ mà dần xuất hiện với cốt cách hiên ngang, nhưng sau đấy cái tôi trở nên thảm hại, bi lụy và mất niềm tin vào hiện thực cuộc sống rơi vào bi kịch cái tôi bơ vơ trước thời cuộc. Hoài Thanh đã khát quát điều ấy bằng những dòng văn hết sức thấm thía và tinh tế, thể hiện phong cách phê bình tinh tế và tài hoa của mình: đời chúng ta nằm trong vòng chữ “tôi”, mất bề rộng ta đi tìm bề sâu nhưng càng đi sâu ta càng lạnh, ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, say đắm bơ vơ cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên khép lại, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn hoàn bơ vơ ta trở về ngẩn ngơ hồn ta cùng Huy Cận. vậy là, Hoài Thanh đã khái quát bi kịch muôn thuở và vĩnh cửu của thi nhân muôn thuở, đó là bi kịch cái tôi cô đơn, bơ vơ. Chính vì thế, người nghệ sĩ luôn khát khao sự tri âm đồng cảm từ độc giả.
Như vậy ta thấy rằng, cách trình bày của Hoài Thanh vừa có tính khái quát cao về sự bế tắc của những cái tôi thơ Mới, đồng thời nhận ra rõ các khuynh hướng thơ đào sâu vào cái tôi, bắt chúng diện mạo, phong cách riêng của từng nhà thơ.
Câu 7: Ý nghĩa của “cái tôi” Thơ mới.
Có thể thấy, tinh thần thơ mới mà Hoài Thanh đề cập đến được ông miêu tả gói gọn trong một chữ duy nhất, đó là “tôi”. “Cái tôi” này được Hoài Thanh luận giải với ý nghĩa tuyệt đối nhất của nó. “Cái tôi” bên trong nội tâm các nhà thơ mới chính là bản ngã của mỗi con người mà ai cũng có. Nhưng cái bản ngã ấy sẽ thay đổi khác nhau tùy vào từng thời đại. Trong thời kỳ trung đại, do đặc điểm của hệ tư tưởng chính trị lúc bấy giờ khống chế, ép buộc nên “cái tôi” cá nhân không được phép bộc lộ, phải giấu kín hoặc triệt tiêu. Các nhà văn nhà thơ lúc bấy giờ chỉ có thể dùng tiếng nói của “cái ta”, cái chung của thời đại. Đó là một nền thơ phi ngã, vô ngã. Chỉ khi nào “cái tôi” ấy được giải phóng thì thi nhân mới có thể nói lên những điều tự đáy lòng mình. “Cái tôi” đó chính là khát vọng được là chính mình, là sự khẳng định bản ngã của nhà thơ trước cuộc đời, là sự tự ý thức về cá nhân mình trong cuộc sống xã hội. “Cái tôi” ấy bị xã hội phong kiến kiềm chế trong bao nhiêu thế kỷ giờ đây trong bối cảnh mới của thời kỳ hiện đại, đặc biệt là những năm 30 của thế kỉ XX mới được giải phóng và bùng nổ mãnh liệt. Và khi được giải phóng thì nó sẽ “làm giàu cho thi ca” bằng những cảm xúc mới mẻ và những cách tân nghệ thuật.
Câu 8: Chú ý cách sử dụng các biện pháp tu từ trong lời văn nghị luận.
Hoài Thanh đã khéo léo sử dụng các biện pháp nghệ thuật tu từ để khiến cho lời văn thêm sắc sảo nhưng không kém phần thú vị. Biện pháp so sánh “Tiếng việt, họ nghĩ, là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua.” Sự so sánh “Tiếng Việt” với tấm lụa đã tạo ra một sự hình dung về thứ đẹp đẽ, tinh tế và quý giá, nó không chỉ mang mang sắc văn hóa qua nhiều thế hệ mà còn chưa đúng vong hồn của con người các thời đại.
Biện pháp tu từ mà tác giả Hoài Thanh đã sử dụng trong đoạn văn là đó chính là biện pháp tu từ điệp cấu trúc (điệp ngữ). Cụm từ “Chưa bao giờ” được tác giả nhắc lại những ba lần ở đầu mỗi câu nhằm nhấn mạnh sự phát triển, sự độc đáo và tiến bộ của Thơ mới. Thơ mới có thể như một điều vị đại mới của nhân loại, một phát kiến chưa từng có, hết sức mới mẻ hết sức cuốn hút, hết sức hấp dẫn.
Cuối cùng so sánh “tinh thần nòi giống cũng như các thể thơ xưa chỉ biến thiên chứ không sao tiêu diệt.” So sánh “Tinh thần nòi giống” với “các thể thơ xưa” để thể hiện sự mạnh mẽ, mãnh liệt cũng đan xen vào lòng tự hào về tinh thần dân tộc.
Việc sử dụng các biện pháp so sánh đan xen với điệp ngữ một cách tinh tế cùng với việc chọn lọc các từ ngữ gợi cảm “tấm lụa,” “can đảm,” “tấm hồn,” và “bất diệt”, Hoài Thanh đã tạo nên được sự linh hoạt và thú vị cho bài nghị luận. Có thể nói cách hành văn của tác giả quả rất tinh tế, tài hoa
2.3 Soạn bài Một thời đại trong thi ca sau khi đọc
Câu 1 trang 89 SGK Văn 11/1 Kết nối tri thức
Đoạn trích này là phần cuối cùng của bài tiểu luận “một thời đại thơ ca”. Luận điểm bao trùm của toàn bộ đoạn trích này là vấn đề về “tinh thần thơ mới”. Đây là một lập luận độc đáo, kết tinh nhiều yếu tố phê phán văn học của Hoài Thanh. Cuộc thảo luận này được chia thành ba phần chính. Đầu tiên, ông đưa ra những nguyên tắc chung cho định nghĩa của mình. Ông nêu ra nguyên tắc chung cho việc định nghĩa của mình: Chỉ căn cứ vào “cái hay”, không căn cứ vào “cái dở” ; Chỉ căn cứ vào “đại thể”, không căn cứ vào “tiểu tiết”. Theo quan niệm của Hoài Thanh (cũng là nguyên tắc chung khi xem xét các hiện tượng văn học), chỉ có “cái hay” và “cái đại thể” mới phù hợp để miêu tả thời đại thơ ca. “Cái dở” và “cái tiểu tiết” không phù hợp để mô tả nghệ thuật hoặc một thời đại nghệ thuật vĩ đại. Hoài Thanh xác định tinh thần thơ mới bằng so sánh. Tinh thần của những bài thơ xưa được gói gọn trong chữ “ta”. Trong khi đó, tinh thần thơ mới được chứa đựng trong chữ “tôi”. Nhà phê bình có đề cập đến chỗ giống nhau nhưng hướng trọng tâm vào chỗ khác nhau của hai chữ này. Bước thứ hai, tác giả luận giải về nội dung và biểu hiện của hai chữ “tôi” và “ta”; Chữ “ta” và biểu hiện của chữ “ta” cùng số phận của nó trong thời đại thơ cũ trước kia. Chữ “tôi” và biểu hiện của chữ “tôi” cùng số phận đầy bi kịch của nó trong thời đại thơ mới này.
Qua ba bước trên, người đọc nhận thấy nhà phê bình đã tuân theo trật tự từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ khái quát đến cụ thể, từ diện mạo (trong không gian) đến diễn biến lịch sử (trong thời gian). Các bước lập luận với trật tự như vậy rất đảm bảo tính logic của tư duy. Vì vậy khả năng thuyết phục rất cao. Đây là một ưu thế của văn nghị luận.
Câu 2 trang 89 SGK Văn 11/1 Kết nối tri thức
Trong phần đầu văn bản, tác giả đưa ra các tiêu chí so sánh thơ cũ và thơ mới nhằm mục đích chính là xác định và làm sáng tỏ sự khác biệt, sự đổi mới và sự phát triển trong thơ ca Việt Nam. Mục tiêu chính của việc này là giúp người đọc hiểu rõ hơn về tinh thần thơ mới và những điểm đặc trưng của nó so với thơ cũ. Bằng cách so sánh các tiêu chí như ngôn ngữ, hình thức, chủ đề, tác giả muốn tạo ra một khung cảnh toàn diện về sự thay đổi trong lĩnh vực thơ ca Việt Nam. Điều này giúp người đọc có cái nhìn tổng quan về sự phát triển của thơ và hiểu rõ hơn tại sao thơ mới được coi là một giai đoạn quan trọng trong văn học nước ta. Ngoài ra, việc so sánh cũng có thể nhấn mạnh sự đánh giá và nhận xét của tác giả về sự phát triển của thơ ca và tạo ra sự rõ ràng về những thay đổi cụ thể mà tác giả muốn bàn luận trong bài viết.
Câu 3 trang 89 SGK Văn 11/1 Kết nối tri thức
Tác giả đã thể hiện sự hướng dẫn tuyệt vời trong những bài thơ mới của mình. Đi sâu vào cái “tôi”: “đời chúng ta nằm trong vòng cái tôi”, “mất bề rộng ta đi tìm bề sâu”. “Mất bề rộng” có nghĩa là không còn nhìn vào cái chung, cái cộng đồng thơ cũ. Chiều sâu có nghĩa là khám phá bản thân và đi sâu vào ý thức cá nhân của mỗi người. Nhưng càng đi sâu thì càng lạnh. Đó chính là bi kịch của thời đại thơ mới. Vì tâm hồn nhà thơ được bao bọc trong chữ “tôi” nên ông dễ cảm thấy cô đơn, lạnh lẽo nên thường bị gọi là “cái tôi tội nghiệp”. Xuân Diệu, nhà thơ toàn diện nhất thời đại này, chỉ nói đến nỗi cô đơn, khốn cùng, khốn cùng của chính mình trong thơ. Từ đó Hoài Thanh đúc kết: “chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn mà nhất là xôn xao đến thế”.
Lối dẫn dắt và lối tranh luận của tác giả càng chặt chẽ hơn khi sử dụng những ví dụ cụ thể, đưa ra những so sánh, đặc biệt là trích dẫn câu chuyện Cao Bá Nha và bà Phú ở bến cảng Cam Đường. Điều này giúp khẳng định sự bất lực của nhà thơ mới. Nỗi buồn trong bài thơ được thể hiện như một bi kịch diễn ra trong thầm kín. Nhưng chính nỗi buồn, sự cô đơn lại mang đến rất nhiều ý nghĩa cho người đọc, cho phong cách thơ riêng của mỗi người.
Câu 4 trang 89 SGK Văn 11/1 Kết nối tri thức
Trong tác phẩm của mình, Hoài Thanh liên tục đưa ra nhiều bằng chứng cụ thể và hợp lý, đây là điểm đặc trưng của một văn bản nghị luận sư dụng thao tác lập luận chứng minh. Ngay từ đầu văn bản, tác giả đã trích dẫn những câu thơ của Xuân Diệu và bà Huyện Thanh Quan. Ở giữa văn bản là những câu thơ của Lý Thái Bạch. Theo sau đó là một loạt các cái tên nổi tiếng như Thế Lữ, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, v.v. được sử dụng để củng cố thêm luận điểm cho câu nói của tác giả. Hay như phần dẫn chứng về bi kịch của Cao Bá Nha và Tầm Dương. Và kết lại bằng câu nói của ông chủ báo Nam Phong. Tất cả những cái tên đó, những con người đó, những câu trích dẫn đó, đều được sử dụng một cách hợp lý đến ngạc nghiên để củng cố thêm vững chắc cho quan điểm về cái “tôi” trong thơ mới của Hoài Thanh.
Thực tế, bản thân bài văn chặt chẽ, lập luận rất khoa học, lối viết của Hoài Tấn rất sắc bén và rất nhạy cảm, mang giọng điệu của người trong cuộc. Và sự chia sẻ tương tự cũng áp dụng cho quan niệm “lấy hồn tôi để hiểu hồn người” của nhà thơ. Cụ thể hơn, chúng ta thấy những khái niệm bản chất khô khan này được chuyển hóa thành hình ảnh biểu cảm qua cách trình bày, giải thích của tác giả. Bài viết có vẻ mạch lạc và có ý nghĩa, với giọng điệu thu hút người đọc. Có lẽ điều này là do nó bổ sung thêm tính nhạc cho bài luận. Cách diễn đạt đoạn văn của Hoài Thanh rất hợp lý, logic, ngôn ngữ độc đáo, đơn giản, dễ hiểu nhưng lại ngắn gọn, điều mà rất ít bài review có thể làm được.
Câu 5 trang 89 SGK Văn 11/1 Kết nối tri thức
Hoài Thanh đã khéo léo sử dụng các biện pháp nghệ thuật tu từ để khiến cho lời văn thêm sắc sảo nhưng không kém phần thú vị. Biện pháp so sánh “Tiếng việt, họ nghĩ, là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua.” Sự so sánh “Tiếng Việt” với tấm lụa đã tạo ra một sự hình dung về thứ đẹp đẽ, tinh tế và quý giá, nó không chỉ mang mang sắc văn hóa qua nhiều thế hệ mà còn chưa đúng vong hồn của con người các thời đại.
Biện pháp tu từ mà tác giả Hoài Thanh đã sử dụng trong đoạn văn là đó chính là biện pháp tu từ điệp cấu trúc (điệp ngữ). Cụm từ “Chưa bao giờ” được tác giả nhắc lại những ba lần ở đầu mỗi câu nhằm nhấn mạnh sự phát triển, sự độc đáo và tiến bộ của Thơ mới. Thơ mới có thể như một điều vị đại mới của nhân loại, một phát kiến chưa từng có, hết sức mới mẻ hết sức cuốn hút, hết sức hấp dẫn.
Cuối cùng so sánh “tinh thần nòi giống cũng như các thể thơ xưa chỉ biến thiên chứ không sao tiêu diệt.” So sánh “Tinh thần nòi giống” với “các thể thơ xưa” để thể hiện sự mạnh mẽ, mãnh liệt cũng đan xen vào lòng tự hào về tinh thần dân tộc.
Việc sử dụng các biện pháp so sánh đan xen với điệp ngữ một cách tinh tế cùng với việc chọn lọc các từ ngữ gợi cảm “tấm lụa,” “can đảm,” “tấm hồn,” và “bất diệt”, Hoài Thanh đã tạo nên được sự linh hoạt và thú vị cho bài nghị luận. Có thể nói cách hành văn của tác giả quả rất tinh tế, tài hoa
Câu 6 trang 89 SGK Văn 11/1 Kết nối tri thức
Hiểu biết về phong trào Thơ mới: Hoài Thanh định nghĩa thơ mới không chỉ là sự đổi mới về hình thức mà còn về nội dung. Ông cho rằng thơ Việt Nam đã trải qua sự chuyển đổi từ chữ “ta” sang chữ “tôi” qua các thời kỳ. Tức là, thơ mới không chỉ thể hiện sự đổi mới về cái tôi của người thơ mà còn về cách thức thể hiện nó qua thơ.
Khái niệm thơ Mới: Ban đầu, thơ mới được hiểu là thơ tự do, nhưng theo thời gian, nó đã phát triển và được bổ sung, hoàn thiện. Thơ mới không chỉ đơn giản là thơ tự do mà là thơ ca phản ánh tâm hồn, tâm trạng và cái tôi của người thơ thông qua nhiều cung bậc, biểu hiện đa dạng, và phức tạp. Cái mới ở đây không chỉ về hình thức mà còn về cách thức thể hiện tâm trạng và suy tư của người thơ.
Mối quan hệ giữa các luận điểm này là rõ ràng: Hoài Thanh cố gắng giải thích sự phát triển của thơ Mới từ việc hiểu biết về phong trào này đến khái niệm thơ Mới được xác định lại. Ông thể hiện sự hiểu biết sâu rộng về thơ Mới thông qua việc nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hiểu đúng về cái mới này và cách thức thể hiện nó, đồng thời sử dụng một lối văn phê bình sáng tạo và hấp dẫn để thuyết phục người đọc.
2.4 Kết nối đọc viết trang 89 SGK Văn 11/1 Kết nối tri thức
Ý kiến của Hoài Thanh về việc các nhà thơ Thơ mới “dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt” thực sự nêu bật tầm quan trọng của ngôn ngữ và văn hóa trong thơ ca. Điều này thể hiện sự nhạy bén của các nhà thơ theo phong trào Thơ mới khi họ không chỉ thể hiện tình yêu và đồng cảm với quê hương mình, mà còn thông qua ngôn ngữ tiếng Việt để giãi bày cái thứ tình cảm cao đẹp thiêng liêng này. Thơ mới không chỉ đánh dấu một bước ngoặt lớn về hình thức, mà còn đánh dấu một tâm hồn sáng tạo mới. Nó tập trung vào việc sáng tạo và thể hiện tình cảm qua ngôn ngữ quê hương. Các nhà thơ Thơ mới đã tận dụng tốt tiếng Việt, vốn ngôn ngữ phong phú và tươi đẹp, để xây dựng các tác phẩm thơ đầy màu sắc và sâu sắc. Qua việc này, họ đã góp phần làm phong phú và phát triển ngôn ngữ tiếng Việt, bảo tồn và phát triển di sản văn hóa của Việt Nam. Cách thể hiện tình yêu quê hương thông qua tình yêu tiếng Việt làm cho thơ mới trở nên đậm đà, sâu sắc và gắn kết mạnh mẽ với đất nước. Các nhà thơ đã sáng tạo bằng cách đặt mọi câu từ, từng cụm từ sao cho chúng vừa thể hiện tình cảm sâu lắng với quê hương, vừa tôn vinh và bảo tồn giá trị của tiếng Việt. Tôi cho rằng ý kiến này đánh đốn rất đúng về tầm quan trọng của việc gìn giữ và phát triển văn hóa và ngôn ngữ trong thơ ca. Tình yêu quê hương và tình yêu tiếng Việt là hai yếu tố không thể tách rời trong việc xây dựng và phát triển một nền văn hóa và nghệ thuật độc đáo và đầy phong cách.
3. Soạn bài Một thời đại trong thi ca sách Cánh diều
3.1 Phần chuẩn bị
Phong trào Thơ mới (1932-1945) là một pha trào văn học đặc biệt quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam. Đây là giai đoạn mà thơ Việt Nam chuyển từ hình thức truyền thống sang một hình thức mới, phóng khoáng hơn, phản ánh sự thay đổi trong tâm hồn và tư duy của thế hệ thơ mới.
Một số tác giả và tác phẩm tiêu biểu của phong trào Thơ mới bao gồm:
Xuân Diệu: Xuân Diệu được coi là một trong những người sáng lập và lãnh đạo phong trào Thơ mới. Tác phẩm nổi tiếng của ông bao gồm “Hòa nhạc cổ điển,” “Và tôi đâu có biết,” và “Hồn Trương Ba da hàng thịt.”
Huy Cận: Huy Cận cũng là một trong những nhà thơ lớn của phong trào Thơ mới. Ông nổi tiếng với các tác phẩm như “Hà Nội mùa thu,” “Chẳng phải người mộng mơ,” và “Ngày trở về.”
Thuận Hoài: Tác giả của bài thơ nổi tiếng “Trăng nước Hà Nội,” Thuận Hoài đã góp phần quan trọng vào phong trào Thơ mới bằng cách thể hiện sự yêu quê hương và tình cảm con người.
Lưu Quang Vũ: Với các tác phẩm như “Trái tim không nhân ái” và “Nhớ,” Lưu Quang Vũ đã ghi dấu ấn trong phong trào Thơ mới bằng cách thể hiện tâm trạng tương đương và tận cùng của con người.
Phong trào Thơ mới đã thay đổi cách tiếp cận văn học và thể hiện sự đổi mới, phóng khoáng trong nghệ thuật thơ. Nó đã đánh dấu sự chuyển đổi quan trọng trong văn học Việt Nam từ thời cổ điển sang hiện đại.
Phong trào thơ mới được chia thành những giai đoạn sau:
Giai đoạn 1932 – 1935: Giai đoạn này là thời kỳ sự nở rộ của phong trào Thơ mới. Được khởi đầu bởi Phan Khôi, nó đánh dấu sự đấu tranh ác liệt giữa hai trường phái thơ: Thơ mới và Thơ Đường lược. Các nhà thơ như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, và Vũ Đình Liên liên tiếp công kích thơ Đường lược và thúc đẩy việc bỏ niêm, luật, đối, bỏ điển tích, sáo ngữ. Giai đoạn này, Thế Lữ được xem là người tiêu biểu của phong trào Thơ mới với tập “Mấy vần thơ” (1935). Ngoài ra, còn có sự góp mặt của các nhà thơ như Lưu Trọng Lư, Nguyễn Nhược Pháp, và Vũ Đình Liên.
Giai đoạn 1936-1939: Giai đoạn này, phong trào Thơ mới chiếm ưu thế tuyệt đối so với thơ cổ điển trên nhiều khía cạnh, đặc biệt về mặt thể loại. Nhiều tên tuổi lớn của văn học Việt Nam lúc này đã nổi tiếng, ví dụ như:
Xuân Diệu: Tác giả của tập “Thơ thơ” (1938) và được coi là nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới.”
Hàn Mặc Tử: Với các tác phẩm như “Gái quê” (1936) và “Đau thương” (1937).
Chế Lan Viên: Tác giả của “Điêu tàn” (1937).
Bích Khuê: Tác giả của tập “Tinh huyết” (1939).
Giai đoạn này đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của phong trào Thơ mới và sự thăng hoa của các nhà thơ cá nhân trong việc thể hiện tình cảm và cái tôi cá nhân qua nghệ thuật thơ.
Giai đoạn 1940-1945: Trong giai đoạn này, phong trào Thơ mới vẫn duy trì nhiều đặc điểm của giai đoạn đầu, nhưng đã có sự thoái trào. Có một số tác giả bắt đầu theo đuổi các khuynh hướng khác nhau. Một số nhà thơ ưa thích việc ăn chơi và tận hưởng cuộc sống trước thời thế loạn lạc, trái ngược với sự hy vọng và lãng mạn của giai đoạn trước. Giai cấp tiểu tư sản thành thị và một số trí thức cũng đã không giữ được tư tưởng độc lập và đã bắt đầu ủng hộ tư tưởng của giai cấp tư sản. Các nhà thơ đối mặt với thân phận của người dân mất nước và bị áp bức bởi chế độ thực dân, và họ có xu hướng linh hoạt đón nhận những luồng gió khác nhau thổi tới.
3.2 Đọc hiểu
Câu 1: Tác giả đưa ra tiêu chí nào để so sánh giữa thơ cũ và thơ mới?
Tiêu chí đề ra để phân biệt thơ mới và thơ cũ không phải lúc nào cũng được đề cập rõ ràng và chính xác, bởi vì mỗi thời đại mang theo một sự phát triển và biến đổi của thơ ca, điều này dẫn đến việc có sự trùng hợp và giao thoa giữa các trường phái thơ. Các nhà thơ và tác phẩm của họ thường không hoàn toàn rơi vào một trong hai hệ thống “thơ mới” hoặc “thơ cũ”. Thực tế, thơ mới và thơ cũ thường tồn tại song song, tương tác và thậm chí là học hỏi lẫn nhau. Mỗi thời đại và mỗi nhà thơ đều mang theo sự đổi mới và sáng tạo riêng của họ. Điều này tạo ra một đa dạng phong phú trong thơ ca, với những biểu hiện khác nhau của cái tôi và cái ta trong từng tác phẩm. Việc hiểu rõ tinh thần thơ đòi hỏi sự linh hoạt trong việc tiếp nhận và đánh giá thơ, không bị ràng buộc bởi một hệ thống tiêu chí cố định. Do đó, cách duy nhất để thấu hiểu sâu sắc tinh thần thơ là phải đặt chúng vào bối cảnh lịch sử và văn hóa, so sánh và đối chiếu chúng với nhau, và từ đó, ta có thể nhận biết và đánh giá sự khác biệt giữa thơ mới và thơ cũ một cách tổng thể và đúng đắn.
Câu 2: Câu văn nào cho thấy luận điểm khái quát của Hoài Thanh?
Câu văn cho thấy luận điểm khái quát của Hoài Thanh: Các thời đại vẫn liên tiếp cùng nhau và muốn rõ đặc sắc mỗi thời phải nhìn vào đại thể.
Câu văn này thể hiện một góc nhìn tổng quan và trường tồn trong cuộc đối diện của thơ mới và thơ cũ. Nó cho thấy rằng việc hiểu rõ sự phát triển của thơ không thể bị hạn chế bởi việc tạo ra các hệ thống tiêu chí cố định để đánh giá mỗi tác phẩm. Thay vào đó, Hoài Thanh nêu ra một quan điểm phổ quát: Các thời đại trong văn học luôn nối tiếp nhau và để hiểu rõ điểm mạnh và đặc sắc của mỗi thời đại, chúng ta cần nhìn vào bức tranh lớn hơn. Việc này thể hiện tôn trọng đối với sự đa dạng và sự biến đổi trong văn hóa và nghệ thuật. Thay vì cố gắng đánh giá mọi tác phẩm dựa trên một bộ tiêu chí cụ thể, chúng ta cần nhận thức về sự tiến hóa của nghệ thuật và cách mỗi thời đại đóng góp vào sự phong phú và đa dạng của văn hóa. Tư duy này cũng đồng nghĩa với việc không cố gắng xác định một thời đại nào đó là tốt hơn hoặc quan trọng hơn. Thay vào đó, nó khuyến khích ta xem xét cách mỗi thời kỳ nói lên những câu chuyện và giá trị riêng của nó thông qua nghệ thuật. Điều này giúp ta hiểu rằng mỗi thời đại đều đóng góp một phần quan trọng vào sự phát triển và giàu có của văn hóa và nghệ thuật.
Câu 3: Vì sao khi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, chữ tôi lại “bỡ ngỡ” và “như lạc loài”?
Khi chữ “tôi” xuất hiện trong thơ và văn của Việt Nam, nó thường được miêu tả là “bỡ ngỡ” và “như lạc loài” vì trong văn hóa truyền thống của Việt Nam, sự cá nhân, tập trung vào bản thân, và bày tỏ cảm xúc cá nhân thường không được coi trọng, và thậm chí là không phù hợp. Trong văn học và thơ cổ điển Việt Nam, tập trung vào cộng đồng, quê hương, gia đình và các giá trị tập thể thường được ưu tiên hơn là tập trung vào bản thân. Việc sử dụng chữ “tôi” thường đi kèm với việc bày tỏ cảm xúc cá nhân và tìm kiếm sự thể hiện cá nhân, điều mà trước đây không phổ biến trong văn học và thơ truyền thống Việt Nam. Sự thay đổi này đánh dấu sự xuất hiện của phong trào Thơ mới, trong đó các nhà thơ đã bắt đầu tự do hơn trong việc bày tỏ cảm xúc, quan điểm cá nhân và tập trung vào “tôi” của họ. Nhưng việc này cũng đã đối mặt với sự phản đối và tranh cãi từ một phần trong xã hội. Trong bối cảnh xã hội đang trải qua nhiều thay đổi lớn, sự thay đổi về tư duy và cách tiếp cận văn hóa cũng đem lại sự “bỡ ngỡ” và mâu thuẫn. Tuy nhiên, phong trào Thơ mới đã thể hiện sự tự do trong sáng tạo và bày tỏ cá nhân, giúp làm thay đổi diện mạo của văn học Việt Nam và đưa nó tiến vào một hướng mới.
Câu 4: Đoạn văn cho biết điều gì về đặc điểm hồn thơ của các nhà thơ mới?
Hồn thơ của các nhà thơ mới tràn đầy sự đam mê và sự tìm kiếm. Họ như những người phiêu lưu trên biển trường tình, tự do khám phá mọi khía cạnh của cuộc sống và tâm hồn. Họ điên cuồng trong tình yêu, tôn vinh sự đẹp đẽ và những cảm xúc mãnh liệt. Nhưng qua thời gian, sự cuồng nhiệt dường như đã phai mờ, để lại sự tỉnh táo, cảm nhận sâu sắc hơn về cuộc sống và tình yêu. Mặc dù tình yêu không còn bền vững nhưng đó vẫn là nguồn cảm hứng cho họ, và họ trở về với tâm hồn, khám phá sự tương tác giữa quê hương và bản thân mình. Những nhà thơ mới thể hiện sự độc lập và tự do trong việc sáng tạo nghệ thuật. Họ không sợ thách thức, không bị ràng buộc bởi các quy tắc cũ, mà tìm kiếm những phong cách mới, tiếp cận đầy sáng tạo. Họ dám nghĩ, dám thử nghiệm, và dám đánh đổ những biên giới cũ trong thơ ca.
Câu 5: Các nhà thơ lãng mạn đã giải tỏa bi kịch đời mình bằng cách nào?
Các nhà thơ lãng mạn đã giải tỏa bi kịch đời mình bằng cách đưa bi kịch ấy gửi cả vào tiếng Việt, biến chúng thành những tác phẩm thơ ca đầy màu sắc và tinh thần. Trong quá trình này, họ đã sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh phong phú để tạo ra những tác phẩm thơ đầy cảm xúc và tâm trạng. Các nhà thơ lãng mạn đã thể hiện mối quan tâm sâu sắc đối với cuộc sống, tình yêu, và những thách thức của thời đại bằng cách sáng tạo trong từng câu thơ, tạo nên một nguồn cảm hứng cho người đọc và thể hiện sự đánh thức và tự do trong sáng tạo thơ ca của họ. Nhờ vào việc biểu đạt một cách tinh tế qua ngôn ngữ thơ, các nhà thơ này đã giúp người đọc thấu hiểu và cảm nhận sâu sắc hơn về những khía cạnh của cuộc sống và tình yêu. Điều này đã tạo nên sự kết nối mạnh mẽ giữa tác giả và người đọc, giúp giải tỏa bi kịch đời mình và tạo ra những tác phẩm thơ vĩ đại trong nền văn học Việt Nam.
3.3 Trả lời câu hỏi cuối bài
Câu 1 trang 132 sách văn 11/2 cánh diều
Nhan đề “Một Thời Đại Trong Thi Ca” trong ngữ cảnh của tác phẩm của Hoài Thanh thường được hiểu là mô tả một giai đoạn đặc biệt trong lịch sử và phát triển của thi ca Việt Nam. Đây là giai đoạn khi thơ mới nảy nở và phát triển mạnh mẽ, đánh dấu sự thay đổi lớn về nội dung, hình thức, và tư duy trong thơ ca của Việt Nam. Trong tác phẩm này, “một thời đại” thường được hiểu là giai đoạn từ cuối thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20, khi các nhà thơ mới nổi lên và bắt đầu thể hiện tư duy, cảm xúc, và ngôn ngữ thơ mới mẻ, độc đáo. Đây là thời kỳ thơ mới đánh bại thơ cũ và bắt đầu thể hiện một tinh thần sáng tạo mới mẻ trong thơ ca Việt Nam. Tuy nhiên, nhan đề này cũng có thể được hiểu một cách rộng hơn, thể hiện sự thay đổi và phát triển liên tục trong thi ca qua các giai đoạn lịch sử khác nhau. Điều này đánh dấu sự tiến bộ và đa dạng trong nghệ thuật thơ ca, thể hiện sự phản ánh của các thế hệ thi sĩ đối với xã hội, văn hóa và tình yêu quê hương.
Câu 2 trang 132 sách văn 11/2 cánh diều
Trong phần 1 của văn bản, để thuyết phục người đọc về sự chiến thắng của thơ mới đối với thơ cũ, tác giả đã mở một cuộc so sánh chi tiết và sâu rộng giữa hai dòng thơ này. Từng bài thơ, từng nhà thơ trong phong trào thơ mới được đánh giá, phân tích, và đặt vào bối cảnh của thời kỳ, nền văn hóa, và tâm trạng của xã hội Việt Nam tại thời điểm đó.Tác giả sử dụng ví dụ cụ thể từ các bài thơ để minh họa sự tiến bộ và sáng tạo của thơ mới so với thơ cũ. Thông qua việc phân tích các câu thơ, cách diễn đạt ý, và tầm ảnh hưởng của từng nhà thơ, tác giả tạo ra một hình ảnh rõ ràng về sự thay đổi trong cách thể hiện và nội dung của thơ qua thời kỳ chuyển mạch từ thơ cổ điển sang thơ mới. Bằng cách này, tác giả đã thực hiện một cuộc tranh luận logic và lôi kéo cảm xúc của người đọc bằng cách trình bày sự phát triển đáng kể của thơ mới và tầm quan trọng của nó trong việc thể hiện tinh thần và bản sắc của thời đại. Cuối cùng, thông qua sự so sánh rõ ràng này, tác giả đã hình dung một hình ảnh rõ nét về tầm quan trọng của thơ mới và cách nó đã làm thay đổi thế giới của văn thơ ở Việt Nam.
Câu 3 trang 132 sách văn 11/2 cánh diều
Luận điểm
Cứ đại thể thì tất cả tinh thần thời xưa – hay thơ cũ – và thời mới nay – hay thơ mới – có thể gom lại trong hai chữ tôi và ta.
Lý lẽ
Bởi vậy cho nên, khi chữ tôi, với các nghĩa tuyệt đối của nó, xuất hiện giữa thi đàn Việt Nam, bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu.
– Thi nhân ta cơ hồ đã mất hết cái cốt cách hiện ngang ngày trước.
– Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi.
Dẫn chứng
– Qua các câu thơ của Xuân Diệu:
“Người giai nhân: bến đợi dưới cây già;
Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt.”
– Hay qua câu thơ của một nhà thơ cũ:
“Ô hay! Cảnh cũng ửa người nhỉ!
Ai thấy ai mà chẳng ngẩn ngơ?
Câu 4 trang 132 sách văn 11/2 cánh diều
Tác giả đặt ra một luận điểm cung cấp cái nhìn khái quát về nội dung này: Bi kịch không chỉ xuất hiện và ảnh hưởng đến cuộc sống của cá nhân, mà nó còn chảy vào sâu trong dòng chảy của thơ ca và xã hội trong thời kỳ đó. Bi kịch này không chỉ đơn thuần là một trải nghiệm cá nhân mà còn phản ánh một phần của tâm hồn và tình cảm quê hương, xã hội, và thời cuộc. Nó là một phần không thể thiếu trong việc hiểu rõ sự thay đổi và phát triển của văn hóa và thi ca trong một thời đại nào đó. Nhưng điều đáng chú ý ở đây là bi kịch này không chỉ là về cuộc sống cá nhân, mà còn là về tất cả mọi người và xã hội nơi họ sống. Nó là một phần không thể tách rời của sự phát triển của thi ca và tư duy văn hóa trong giai đoạn đó, và nó thể hiện qua cảm xúc, tình cảm, và tâm trạng trong thơ của các nhà thơ thời kỳ đó.
Câu 5 trang 132 sách văn 11/2 cánh diều
Đoạn văn trên sử dụng một sự kết hợp của các phương thức biểu đạt, bao gồm sử dụng từ ngôn ngữ, tình cảm và hình ảnh thơ. Đây là một sự kết hợp phong phú giữa ngôn ngữ mô tả cảm xúc và hình tượng thơ để thể hiện tâm trạng và trải nghiệm của người viết. Sự kết hợp này có tác dụng tạo ra một biểu đạt mạnh mẽ và sâu sắc về sự thay đổi trong cuộc sống và tâm hồn của người viết. Nó giúp độc giả cảm nhận được một loạt cảm xúc và tâm trạng phức tạp, từ sự phấn khích khi “thoát lên tiên” và “phiêu lưu trong trường tình” đến sự “điên cuồng” và “đắm say,” rồi đến sự “bơ vơ” và “buồn trở về.”
Tác dụng của sự kết hợp này là làm nổi bật sự biến đổi và sự thất vọng trong cuộc sống và tâm hồn của người viết. Nó cho thấy rằng cuộc hành trình qua nhiều trạng thái tình cảm khác nhau đã thay đổi tâm trạng của người viết, từ niềm phấn khích đến sự cô đơn và buồn bã. Sự kết hợp này cũng giúp thể hiện sự phức tạp của tâm trạng con người và sự biến thiên của cảm xúc trong cuộc sống.
Câu 6 trang 132 sách văn 11/2 cánh diều
Đặc điểm ngôn ngữ trong văn bản nghị luận văn học của Hoài Thanh:
Phong cách tỉ mỉ và hùng tráng: Hoài Thanh sử dụng ngôn ngữ chi tiết và tường thuật một cách tỉ mỉ để miêu tả các nhà thơ của phong trào Thơ mới. Từng tên tuổi nhà thơ được đặc tả bằng những từ ngữ chính xác và tinh tế, như “rộng mở,” “mơ màng,” “hùng tráng,” “trong sáng,” “ảo não,” “quê mùa,” “kì dị,” “thiết tha,” “rạo rực,” “băn khoăn.” Điều này tạo nên hình ảnh sống động và đa dạng về cá nhân hóa của mỗi nhà thơ, với một loạt đặc điểm độc đáo.
Sử dụng so sánh và ví von: Hoài Thanh sử dụng các từ “như,” để so sánh các đặc điểm của các nhà thơ Thơ mới với nhau. Sử dụng so sánh giúp người đọc dễ dàng so sánh và thấu hiểu tính cách và tài năng của từng nhà thơ trong phong trào này.
Tone mạnh mẽ và đánh giá tích cực: Từ ngôn ngữ được sử dụng, ta có thể thấy sự ngưỡng mộ và đánh giá tích cực của Hoài Thanh đối với các nhà thơ Thơ mới. Cách anh ta mô tả họ thể hiện sự thán phục và sự tự hào trong việc bảo vệ và thể hiện tinh thần thơ mới.
Phong trào Thơ mới lãng mạn 1932 – 1945:
Đoạn văn này nêu bật sự đa dạng và phong phú của phong trào Thơ mới trong giai đoạn 1932 – 1945. Các nhà thơ trong phong trào này có những đặc điểm, tài năng và phong cách riêng biệt. Điều này thể hiện tính đa dạng và phong phú của thơ mới trong giai đoạn này.
Nhắc đến các nhà thơ nổi bật như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Nguyễn Nhược Pháp, Huy Cận, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên, và Xuân Diệu, đoạn văn tôn vinh đóng góp của từng nhà thơ cho phong trào Thơ mới và tạo nên một bức tranh tổng quan về sự thăng hoa và sự đa dạng của thơ mới trong giai đoạn này.
…
Mong rằng nội dung chuẩn bị về Soạn bài Một thời đại trong thi ca (Hoài Thanh) | Văn 11 Cánh Diều…sẽ là tài liệu soạn văn 11 cần thiết giúp các bạn học sinh nắm vững kiến thức bài học trước khi lên lớp và tự tin hơn nữa trong bài thi môn ngữ văn tốt nghiệp THPT sắp tới. Tham khảo và áp dụng thật tốt nội dung trên để đạt kết quả cao cho kỳ thi sắp tới nhé!
Theo dõi MXH của Onthidgnl nhé:
FB: https://www.facebook.com/onthidgnlcom