• Skip to main content
  • Skip to primary sidebar
  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Ôn thi đại học
    • Ôn thi Đánh giá năng lực
    • Ôn thi tốt nghiệp THPT
    • Ôn thi đánh giá tư duy
    • Tài liệu mới Update
    • Tài liệu kiến thức
  • Kiến thức
    • Toán
    • Vật Lý
    • Hóa Học
    • Ngữ Văn
    • Tiếng Anh
    • Sinh Học
  • kho tài lệu free
  • Tin tức học đường
  • Liên hệ

Ôn thi ĐGNL

Website chia sẻ tài liệu luyện thi miễn phí

Kết nối chúng tôi

  • Amazon
  • Facebook
  • Pinterest
  • Threads
  • Twitter
  • YouTube

Ngữ Văn

Hướng dẫn viết mở bài Nghị luận văn học khi bí ý tưởng

Tác giả Tùng Teng posted 21/03/2024

Khi đối diện với việc viết mở bài Nghị luận văn học khi bí ý tưởng và chưa rõ ràng. Bạn cần tập trung vào việc tạo ra một cái nhìn tổng quan về chủ đề hoặc vấn đề mà bạn muốn khám phá trong nghị luận. Sử dụng một câu hỏi, một trích dẫn hoặc một thống kê thú vị để khơi gợi sự tò mò của độc giả. Cùng theo dõi hướng dẫn của Onthidgnl nhé.

Hướng dẫn viết mở bài Nghị luận văn học khi bí ý tưởng

Hướng dẫn viết mở bài Nghị luận văn học bị bí ý tưởng

Mở bài đi từ tác giả đến tác phẩm

Ví dụ: Khi mở bài đề “Cảm nhận của em về đoạn trích chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng”
Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, quê ở Chợ Mới, tỉnh An Giang. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, ông sống và hoạt động tại chiến trường Nam Bộ. Trong suốt hành trình văn chương của mình, ông đã để lại nhiều tác phẩm đặc sắc tiêu biểu với nhiều thể loại khác nhau: Con chim vàng, Người Quê hương, Chiếc lược ngà, Bông cẩm thạch… tiểu thuyết có: Đất lửa, Mùa gió chướng, Dòng sông thơ ấu… Ngoài ra còn có một số kịch bản phim lưu trữ trong lòng người như: Một thời đã nhớ. Truyện ngắn “ chiếc lược ngà” viết vào tháng 9/1966 tại chiến trường Nam Bộ trong thời kì kháng chiến chống Mỹ ác liệt, ca ngợi tình cảm đồng chí, cha con sâu sắc.

Mở bài xuất phát từ lý luận văn học

Mở bài về thơ ca

Mở bài 1:

Ai đó đã từng nói: “Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ. Như đám mây ngũ sắc ngủ trên đầu”. Có những tác phẩm ra đời để rồi lãng quên ngay sau đó, nhưng có những tác phẩm lại như những dòng sông đỏ nặng phù sa in dấu ấn chạm khắc trong tâm khảm. Những tác phẩm ấy đã trở thành “ những bài ca đi cùng năm tháng” và để lại trong tâm hồn bạn đọc những ấn tượng không bao giờ quên. Một trong số đó phải kể tới “ ……..“ của …….. Bài thơ được bao trùm trong nỗi xúc cảm, trong đó tiêu biểu nhất đoạn thơ…(Trích dẫn thơ)

Mở bài 2:

“Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm” (Voltaire). Thơ ca chỉ bật ra khi trong tim người nghệ sĩ đang rung lên những nhịp đập thổn thức, đang ngân lên những điệu ngân của tâm hồn. Chính bởi vậy, mỗi vần thơ dù ngắn gọn nhưng lại có sức truyền tải lớn tới người đọc. Và có những bài thơ đã ra đời cách chúng ta hàng chục năm nhưng tới nay vẫn còn vẹn nguyên giá trị. “ …” của ……. là một tác phẩm như vậy. Trong bài thơ có những vần thơ ngân lên khiến người đọc không khỏi … (Trích dẫn thơ)

Mở bài văn xuôi

Mở bài 1:

“Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương, loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người .(Nguyễn Văn Siêu). Văn chương muôn đời luôn phải phục vụ con người, hướng con người tới những giá trị cao cả của cuộc sống. “ …..” của ….. là một trong những tác phẩm xuất sắc của nền văn học nước nhà. Truyện ngắn đã hướng con người, đặc biệt những con người nghèo khổ tới ánh sáng của ngày mai, giúp họ vững tin hơn giữa giông bão của cuộc đời. Trong truyện…., Nhà Văn… đã xây dựng thành công nhân vật ….. – là một hình tượng nhân vật điển hình của nông thôn Việt Nam trong nạn đói.

Mở bài 2:

“Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết vàng mà đời rơi vãi / Hãy nhặt lấy chữ của đời mà góp nên trang” (Chế Lan Viên). Thơ ca nói riêng cũng như văn chương nói chung phải “bắt rễ từ cuộc đời” để rồi “ nở hoa nơi từ ngữ”. Mỗi tác phẩm văn chương được ví như tấm gương phản chiếu thời đại. Trong nền văn học Việt Nam, có những tác phẩm văn học ra đời giữa thời kỳ mưa bom bão đạn của dân tộc để rồi trở thành “ những bài ca không bao giờ quên”. Trong số đó phải kể tới “ …” của… Truyện ngắn đã phản ánh … trong những năm …và thể hiện rõ nét nhất qua đoạn trích: …

Ví dụ: Khi mở bài đề “ Cảm nhận của em về đoạn trích chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng”
Có một nhà văn đã nói rằng : “Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp bằng chính cuộc sống viết ra”. Cuộc chiến tranh chống Mĩ của dân tộc ta với biết bao câu chuyện đã trở thành huyền thoại được các nhà văn ghi lại như những câu chuyện cổ tích hiện đại. Trong số ấy phải kể đến “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng. Câu chuyện đã thể hiện thật cảm động tình cảm cha con sâu nặng và cao đẹp trong thời kì chiến tranh khói lửa.Đoạn trích… là ở phần giữa câu chuyện, tập trung thể hiện sâu sắc và cảm động tình cha con của ông Sáu và bé Thu qua những tình huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí. Đó không chỉ là một tình cảm muôn thuở, có tính nhân bản bền vững, mà còn được thể hiện trong hoàn cảnh ngặt nghèo, éo le của chiến tranh và cuộc sống nhiều gian khổ, hy sinh của người cán bộ cách mạng.

Mở bài bàn về chức năng của văn học

Bạch Cư Dị từng nói: “Cảm động lòng người trước hết không bằng tình cảm và tình cảm là cái gốc của văn chương”. Cái gốc ấy không gì khác ngoài tư tưởng mà nhà văn muốn kí thác vào trong tác phẩm, bởi điều còn lại đối với mỗi nhà văn chính là giọng nói của riêng mình. Tư tưởng gieo mầm vào tâm hồn nghệ sĩ và từ mảnh đời màu mỡ ấy nó phát triển thành một hình thức xác định, trở thành các hình tượng nghệ thuật đầy vẻ đẹp và sức sống. Bàn về tư tưởng trong tác phẩm văn học, nhà văn Nguyễn Khải khẳng định: “Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các cung bậc của tình cảm, chứ không phải tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên và là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng một tác phẩm nghệ thuật”…

Mở bài cho dạng đề so sánh tác phẩm

Vận dụng cách mở bằng lí luận văn học, mở bài cần nêu được khái quát tên tác phẩm, tác giả và đối tượng cần so sánh. Có thể dẫn từ những câu nhận định văn học sau:
– Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ là nhà văn cả… Nếu anh không có giọng riêng, anh khó trở thành nhà văn thực thụ (Sê – Khốp)
– Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo vì vậy nó đòi hỏi người viết sự sáng tạo phong cách mới lạ, thu hút người đọc (LLVH)
– Cái quan trọng trong tài năng văn học là tiếng nói của chính mình, là cái giọng riêng của chính mình mà không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kỳ một người nào khác (Tuốc– ghê – nhép)
– Không có tiếng nói riêng không mang lại những điều mới mẻ cho văn chương mà chỉ biết dẫm theo đường mòn thì tác phẩm nghệ thuật sẽ chết (Lêonit – Lêonop)

Mở bài cho đề tài kháng chiến chống Pháp, Mỹ

Có thể nói văn học được xem là một bộ phận của công cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc, đã có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Với sứ mệnh đó, tinh thần yêu nước từ bao giờ đã trở thành chủ đề bao trùm của nền văn học nước nhà. Phẩm chất yêu nước tồn tại trong tâm thức của mỗi con người Việt, và trỗi dậy mỗi khi dân tộc đứng trước họa xâm lăng. Có thể nói, văn học giai đoạn chống … được thể hiện tập trung nhất, sâu sắc nhất, tình yêu quê hương vô hình biến thành sức mạnh hữu hình góp phần trong sứ mệnh chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Và ở đó ngời sáng vẻ đẹp của những chiến sĩ anh dũng, kiên cường, một lòng hướng về dân tộc, đất nước. Người đọc có thể sống trọn với những ngày tháng hào hùng ấy qua hình ảnh người lính…trong tác phẩm…của…

Mở bài về những con người nông dân bất hạnh

“Cuộc sống còn tuyệt vời biết bao trong thực tế và trên trang sách. Nhưng cuộc sống cũng bi thảm biết bao. Cái đẹp còn trộn lẫn niềm sầu buồn. Cái nên thơ còn lóng lánh giọt nước mắt ở đời” (Trích trong Nhật ký của Nguyễn Văn Thạc). Có lẽ, ta không thể cảm nhận trọn vẹn “niềm sầu buồn” hay “giọt nước mắt” đó nếu nhà văn/nhà thơ……..không dùng ngòi bút của mình để in dấu tất cả qua hình tượng nhân vật………. với đầy những áp bức, bóc lột và bất công, nhưng trên hết những người nông dân ấy vẫn giữ trọn vẻ đẹp nhân cách, tâm hồn.

Mở bài dạng đề phân tích nhân vật

“Đối tượng của văn học vốn là thân phận con người, nên chỉ có kẻ nào đọc và hiểu nó sẽ hóa thành không phải là một chuyên gia nghiên cứu văn học mà là một kẻ hiểu biết con người một cách sâu sắc”. Quả thực, con người luôn là nơi bắt đầu và cũng là nơi đi đến của văn học. Với mỗi thế giới khác nhau của mỗi một tác phẩm, người đọc lại có một chiêm nghiệm riêng về con người. Và trong tác phẩm…….., nhà văn/nhà thơ ……..đã dùng ngòi bút của mình để mang đến những trang văn neo đậu mãi trong tâm hồn chúng ta về nhân vật…

 

Hy vọng với những chia sẻ trên sẽ giúp các em viết mở bài nghị luận văn học hiệu quả nhé!

 

Filed Under: Ngữ Văn; Tagged With: nghị luận văn học

Phân tích diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân

Tác giả Tùng Teng posted 21/03/2024

Cùng tham khảo bài Phân tích diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân được Onthidgnl chia sẻ nhé!

Phân tích diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân

Phân tích diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân

“Nhà văn tồn tại trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường. Những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đầy đọa đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại trên đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực”( Nguyễn Minh Châu ). Trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, bằng lối trần thuật sinh động, ngôn ngữ bình dị, thông tục nhưng được sử dụng vô cùng đắc địa, Tô Hoài đã thực hiện được trọn vẹn sứ mệnh của một người cầm bút chân chính khi dựng nên pho tượng nghệ thuật tuyệt vời về sức sống sức sống tiềm tàng mãnh liệt mà không thế lực nào có thể dập tắt được của nhân vật Mị trong một đêm tình mùa xuân rộn ràng cảnh sắc làm si mê lòng người “ Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong…. sáng tự bao giờ.”

Tác phẩm “Vợ chồng A phủ” lấy bối cảnh ở một ngôi làng nhỏ ở vùng cao Tây Bắc-Hồng Ngài, nơi mà bọn chúa đất phong kiến làm mưa làm gió, hoành hành dữ dội. Tô Hoài đã chấm ngòi bút của mình vào nghiên mực cuộc đời để vẽ nên bức tranh địa ngục đầy u tối của những con người lao động lam lũ ở nơi đây. Với họ những tháng ngày bị đọa đày, trói buộc bởi hai vòng xiềng xích cường quyền và thần quyền là những chuỗi ngày bi kịch nhất, bất lực nhất và không có hi vọng nhất. Mị vốn là người con gái trẻ đẹp, nàng duyên dáng và đầy sức sống như “hoa ban hoa gạo tháng hai” của miền Tây Bắc, nàng biết thổi sáo và được nhiều người theo đuổi ” Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mỵ hết núi này sang núi khác.” nhưng trớ trêu thay, vì món nợ truyền kiếp của gia đình mà nàng trở thành “con dâu gạt nợ” cho nhà thống lí Pá Tra. Cũng từ đây, cuộc đời nàng rẽ sang trang khác, cường quyền và thần quyền trói buộc đã biến nàng thành” con rùa lùi lũi nơi xó cửa” , thành công cụ lao động vô tri, khiến nàng sống còn “không bằng con trâu, con ngựa”.

Tưởng rằng Mị sẽ kéo dài kiếp sống vô cảm, vô tri nhưng một đêm tình mùa xuân rạo rực, một bức họa thiên nhiên tuyệt sắc đã đánh thức mảnh tàn hồn của Mị :” Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi cỏ gianh vàng ửng, rét dữ dội”. Một câu văn ngắn báo hiệu mùa xuân đã về. Mùa xuân nơi rẻo cao với sương trắng lạnh buốt xé da cắt thịt cùng với gió rét dữ dội ở những nơi đầu núi cuốn về, tất cả được tụ lại qua cụm từ “ rét càng dữ”. Thời tiết khắc nghiệt là vậy nhưng cũng không thể ngăn cản được thiên nhiên tạo hóa Tây Bắc xúng xính khoe sắc đón xuân. Bằng những từ ngữ miêu tả khéo léo và công phu, Tô Hoài như nắm lấy tay người đọc lôi tuột vào thế giới của những trang sách, khiến khung cảnh bức tranh xuân nơi “ bản sương giăng, đèo mây phủ” sống dậy, rộn ràng với những gam màu tươi rói trước lăng kính của các bạn đọc “Trong các làng Mông đỏ, những chiếc váy hoa được phơi ra mỏm đá, xòe như con bướm sặc sỡ”. Với thủ pháp so sánh “xòe như con bướm sặc sỡ”, vạn vật nơi núi rừng như đang bừng nở, giao hòa với thiên nhiên đất trời, cùng nhau duyên dáng và kiều diễm đón nàng xuân đã về.

Văn chương vốn bắt nguồn từ mạch chảy ngọt ngào của cuộc sống. Còn nhà văn lại là những chú ong cần mẫn bay lượn trong khu vườn cuộc đời, hút lấy chất mật tinh túy, ngọt ngào nhất để tạo nên những câu văn lấp lánh, có giá trị cho đời. Bằng tất cả tâm huyết, sự quan sát tỉ mỉ và tinh tế, bút pháp tả cảnh lão luyện, bức họa đêm tình mùa xuân của nhà văn Tô Hoài đã thực sự kí thác vào lòng độc giả những cảm xúc rộn rạo, náo nức khó quên. Đó là một bức tranh tràn đầy nhựa sống và niềm hi vọng khi người người, nhà nhà nô nức đón xuân “Đám trẻ đợi tết, chơi quay, cười ầm đi chơi…ở mỗi đầu làng đều có một mỏm đất phẳng làm sân chơi chung ngày tết. Trai gái, trẻ con ra sân tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy”. Với những từ ngữ giàu chất tạo hình, bức tranh ngày tết ở Hồng Ngài hiện lên đầy sống động, tràn ngập màu sắc và âm thanh. Dường như không khí náo nức của ngày tết đến xuân về đã nhuốm cả vào cảnh vật và con người khiến tất cả như được khởi động, bừng tỉnh. Lũ trẻ háo hức đợi xuân về cười “ầm ầm” huyên náo khắp cả một vùng đất hoang vu. Thủ pháp liệt kê miêu tả những hoạt động vui chơi cổ truyền ngày tết của Hồng Ngài như chơi quay, đánh pao, thổi khèn, thổi sáo… cũng góp phần họa nên khung cảnh ngày xuân của người dân miền núi trong tâm trí người đọc, giúp người đọc hiểu thêm sâu sắc về những tập tục đậm đà bản sắc của người miền cao. Hòa chung trong bầu không khí với làng, gia đình thống lý Pá Tra cũng hồ hởi đón tết :” Cả nhà thống lý ăn xong bữa cơm tết cúng ma. Xung quanh chiêng đánh ầm ỹ, người ốp đồng vẫn nhảy lên xuống, run bần bật. Vừa hết bữa cơm tiếp ngay cuộc rượu bên bếp lửa.” Chỉ đôi ba câu ngắn gọn, nhà văn Tô Hoài đã dệt nên khung cảnh đón tết khác thường của nhà thống lý một cách chân thực, sắc sảo. Phải chăng đó là cái “phong vị riêng biệt” của những nhà thống lý quyền thế cao sang? Tính từ “ầm ĩ” kết hợp với những động từ chỉ phương hướng “ nhảy lên”, “nhảy xuống” và “rung bần bật” cho thấy lối cúng tết quái đản, dị hình, ma mị đến rợn người của nhà chúa đất Pá Tra. Đó còn là sự ăn chơi trác táng “ vừa hết bữa cơm, tiếp ngay cuộc rượu bên bếp lửa”. Có lẽ, cuộc rượu sẽ còn kéo dài miên man bởi động từ “ tiếp ngay” sau đó.

Bằng những câu văn ngắn, nhịp nhanh, liên tiếp nối đuôi nhau, ngắt quãng ở nhiều dấu phẩy, giọng văn nhẹ nhàng say đắm, những từ ngữ phong phú giàu chất gợi, nhà văn Tô Hoài không chỉ thành công vẽ nên một bức tranh xuân lãng mạn, nên thơ, rộn ràng giữa thời khắc giao thoa của đất trời mà còn phô diễn được hết những hiểu biết am tường tinh tế của mình về những phong tục đậm đà bản sắc, phong vị của miền Tây Bắc. Nhà văn Pauxtopxki từng nói: “ Niềm vui của nhà văn chân chính là được làm người dẫn đường tới xứ sở của cái đẹp” quả thực không sai. Cùng với danh xưng “nhà văn của phong tục” của mình , người văn sĩ họ Tô ấy đã thật sự tài tình và khéo léo khi dẫn dắt người đọc tới “kho trầm tích của văn hóa dân gian”, giúp người đọc có thể phóng tầm mắt tới những miền đất xa xôi và thổn thức bởi cái đẹp của đêm xuân nơi miền cao Tây Bắc.

Nhà đại văn hào William Shakespeare từng nói: “ It’s not in the stars to hold our destiny but ourselves”, nghĩa là “ Chúng ta nắm giữ vận mệnh chính mình chứ không phải các vì sao”. Trước nay, sức mạnh của hai từ “ sinh mệnh “ diệu kỳ luôn khiến con người ta cảm thán. Dường như bên trong trái tim mỗi người luôn tiềm tàng một sức sống mãnh liệt, như hòn than hồng đỏ lửa vẫn luôn âm ỉ cháy dưới lớp tro tàn nguội lạnh, chỉ cần một trận gió thổi tới là có thể thổi bùng lên dữ dội, sáng rực lộng lẫy. Và chính thời điểm “ gió thổi cỏ gianh vàng ửng” của Hồng Ngài năm ấy, khi khí xuân êm đềm, rộn rã, sức xuân cuồng nhiệt, mạnh mẽ,hồn xuân quyến rũ dạt dào, tất cả hòa quyện tuyệt đối tạo nên vẻ đẹp mê hồn của sức sống ngày xuân đã đánh thức trái tim Mị. Nói cách khác, thiên nhiên đã đánh thức sức sống của một con người vô cảm khiến nàng như dần hồi sinh sau những ngày tháng sống lùi lũi như con rùa xó cửa.

“Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”. Cả không gian ngày xuân tràn ngập trong tiếng sáo như muốn làm say mê lòng người. Tiếng sáo vang lên tha thiết bồi hồi văng vẳng vọng vào miền kí ức xa xăm của Mị, khiến con sóng lòng nàng như dâng lên từng nhịp, xao động mạnh mẽ. Hai tính từ “ tha thiết, bổi hổi” được đặt liên tiếp cuối câu như một manh mối rõ rành về tâm hồn đã rung rinh theo nhịp sáo, trái tim vô cảm, tâm hồn chai sạn nay dường như được tiếng sáo kia nhẹ nhàng an ủi, mơn trớn vỗ về từng nhịp, từng nhịp. Với Mị, tiếng sáo là bài ca muôn thuở của sự sống, là biểu tượng của tự do, tình yêu và hạnh phúc mà bấy lâu nay dường như bị quên lãng, bây đây lại được đánh thức, hồi sinh. Hóa ra, bên trong con người câm lặng kia, tiếng sáo vàng son ngày xưa vẫn còn được hằng lưu giữ, vẹn nguyên nơi kí ức, như thỏi than hồng ủ kín, có cơ hội là trỗi dậy thăng hoa.

Trái tim Mị giờ đây như một lần nữa có “nhịp đập” trở lại. Sự hồi sinh của một trái tim vô tri trở về có máu thịt, có cảm xúc khiến Mị đau đớn nhận thức được thực tại của mình. Tất cả nỗi bi phẫn, tủi nhục, không cam tâm cứ chất chồng lên, ứ đọng nơi trái tim Mị, tạo thành nỗi đau khổ, quẫn bách không nói nên thành lời… Có lẽ vậy nên “ Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát”. Động từ “ ừng ực” kết hợp với số từ “ từng” đã khắc sâu trạng thái và tư thế uống của Mị. Dường như nỗi đau nơi địa hạt tâm hồn khiến Mị uống lấy uống để, uống như chẳng để thưởng rượu, mà uống để say, để quên đi tất cả, quên đi hiện thực tàn nhẫn, để thoát hồn mình về một cõi xa xôi nào khác “ Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng… Có biết bao người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Chén rượu xuân đã đánh thức sức mạnh tâm hồn Mị. Mị không còn khái niệm về không gian và thời gian,Mị cũng không còn thấy người ta nhảy đồng run bần bật, không còn nghe thấy thanh âm bài hát văng vẳng ngoài đường. Hơi rượu và âm thanh “ tiếng sáo đầu làng” đang đưa Mị về một cõi khác, về một quá khứ thân thương với bao kỉ niệm tươi sáng. Tiếng sáo đâu đó lại vang lên, một, hai .. đến tám lần, tha thiết rồi hội tụ, nén đầy, cứ mãi rập rờn trong đầu Mị, nỉ non trong trái tim Mị thành tiếng lòng thổn thức. Tiếng sáo cứ dai dẳng, âm ỉ và mãnh liệt như sức sống trong tâm hồn người Tây Bắc. Đúng như nhà văn Tô Hoài đã nói:” Ở nơi núi rừng mơ màng ấy, các dân tộc đã không lặng lẽ chịu đựng”. Phải chăng đây chính là vẻ đẹp tiềm tàng, sức sống mãnh liệt trong tâm hồn người dân miền cao Tây Bắc cũng như của nhân vật Mị?

Hơi rượu nồng nàn rồi cũng phai “ Rượu tan từ lúc nào, người về, người đi chơi đã vãn. Mị ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau Mị mới đứng dậy nhưng Mị không bước ra đường, Mị từ từ đi vào trong buồng”. Nhịp điệu câu văn đứt quãng như diễn tả sự mệt mỏi, rã rời mơ hồ bế tắc của Mị. “Mị ngồi trơ giữa nhà” để thấy cô vẫn cô đơn xuôi ngược, mơ hồ trong dòng kí ức. Từ “ trơ” khiến ta liên tưởng đến ý thơ của người phụ nữ xưa cũng đầy cay đắng, khổ đau “ Trơ cái hồng nhan với nước non”. Mị chỉ biết lặng lẽ cất giấu, chôn vùi nỗi niềm riêng của mình trong căn buồng chật hẹp tăm tối.

Khi hạt mầm sự sống được dấy lên lần nữa thì cũng là lúc Mị nhận thức được rằng “ A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”. Một cuộc hôn nhân không có tình yêu chẳng khác nào địa ngục giày xéo tâm hồn, sống cũng chẳng bằng chết. Có lẽ vậy mà Mị lại có một suy nghĩ lạ lùng và chân thực xót xa đến thế “ Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa”. Nghịch lí trên đã cho thấy, khi niềm khao khát sống được hồi sinh thì Mị cũng không thế chấp nhận một cuộc đời trâu ngựa, câm lặng nữa. Nàng tìm đến lá ngón như để chấm dứt quãng ngày dài vô nghĩa vô tri, nó cho thấy sự nhất quán trong nét tính cách của Mị. Có thể thấy, nhà văn Tô Hoài đã từng bước rọi vào miền thâm u của thế giới nội tâm nhân vật và bê nó lên trang giấy bằng những nét vẽ phác họa tâm lý đầy sắc sảo và sống động, phơi bày tất cả những bí mật đời sống nội tâm,vẻ đẹp và nét tính cách riêng biệt của nhân vật.

Lúc này, tâm hồn Mị thăng hoa trong ngập tràn cảm xúc. Từ trong chết mòn, trơ cứng, Mị lại tìm gặp sự hồi sinh, lòng thấy “phơi phới trở lại”. Cảm xúc trở nên đột biến “ đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”. Một sự nhận thức tinh tế về mình “ Mị còn trẻ lắm”, để rồi khẳng định mạnh mẽ “ Mị vẫn còn trẻ”. Thế giới ngục tù có thể làm bào mòn , hư hao tâm hồn Mị nhưng không đủ sức tàn phá vẻ đẹp tâm hồn của người sơn nữ. Mị đang ở độ trẻ đẹp, đầy nhựa sống như bông hoa nhỏ của vùng Tây Bắc, vì vậy Mị có quyền hưởng trọn quyền tự do, hạnh phúc của tuổi trẻ, Mị muốn đi chơi, muốn thụ hưởng cái quyến rũ dạt dào của xuân sắc, sống trọn niềm vui ngày tết. Mị muốn tiếng sáo của mình theo gió thăng hoa, ngân vang hòa quyện với đất trời trong tiết xuân rộn rã. Sức sống bấy lâu nay bị đè nén bỗng trào lên mạnh mẽ, không thể trói buộc, không thể dập tắt được nữa. Mị thèm hòa mình với dòng người đi chơi tết, thưởng xuân đến cháy lòng.

Từ ý nghĩ thức tỉnh, dẫn đến hành động quyết liệt có tính cách mạng. Mị đến góc nhà “ lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Hồi phục sức sống, Mị càng nhận thức rõ hơn về sự u tối của căn phòng cũng như cuộc đời mình. Thắp ngọn đèn không chỉ để thắp sáng cho căn phòng mà dường như đó còn là thắp sáng ngọn lửa tâm hồn để xua tan cái lạnh lẽo nơi trái tim, rọi sáng cuộc đời quá ư ngột ngạt, tăm tối, đầy bùn lầy tù đọng của mình. Ngọn lửa ấm áp ấy “kích hoạt”, thôi thúc thỏi than hồng bấy lâu ấp ủ trong tâm hồn Mị, khiến nó rực cháy mãnh liệt, ấm nóng hơn, nồng đượm hơn. Để rồi hành động này thúc đẩy hành động tiếp theo như một phản ứng dây chuyền mà không thể nào ngưng lại được nữa. Dường như không kể gì đến những ràng buộc khắt khe, những xiềng xích tàn bạo của nhà thống lí, Mị tự mình hành động như một con người tự do, theo tiếng gọi của lòng mình: quấn lại tóc, rút cái váy hoa…, sửa soạn đi chơi tết.
Thế nhưng giữa lúc lòng ham sống trỗi dậy mạnh mẽ nhất thì cũng là lúc nó bị vùi dập xuống phũ phàng nhất. A Sử bước vào, thản nhiên, lầm lì trói đứng Mị vào cột nhà “ Tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn tóc lên cột… “. Sợi dây trói xuất hiện như một sự hiện thân hung tợn của lối hành xử dã man thời trung cổ, của sự chống lại quyền sống chính đáng, chống lại quyền tiền tự do, khát vọng hạnh phúc của con người. Trói Mị xong, A Sử tắt đèn, tắt đi cái khát vọng sống vừa mới manh nha, hé mở trong người con gái đó rồi lạnh lùng đi ra, khép cửa buồng lại. Có câu “ Nơi lạnh lẽo nhất không phải là Bắc Cực mà là nơi không có tình thương”, quả thực rất đúng với bức họa hiện thực sinh động này của nhà văn Tô Hoài. Một loạt những hành động nối tiếp được A Sử làm một cách mau lẹ, thản nhiên và vô cùng dứt khoát thật khiến lòng người phải nguội lạnh, phát run…

Suốt cái đêm bị trói đứng vào cột, Mị như bị đinh đóng vào từng tấc đất linh hồn và thể xác. Trái tim Mị là “ tiếng thét khổ đau” dài vô tận, nó bị quằn quại, cắn xé đến điên cuồng giữa khát khao hạnh phúc chảy bỏng và hiện thực tàn nhẫn, xấu xa. Với bút pháp trần thuật đầy sắc sảo, nhà văn Tô Hoài đã khéo léo vén tấm màn nội tâm của nhân vật Mị, dẫn dắt ta bước vào thâm u sâu thẳm của linh hồn nàng, để ta cảm nhận rõ hơn những suy nghĩ, nỗi đau mà người con gái bé nhỏ ấy phải chịu từ lúc “hơi rượu còn nồng nàn” đến khi “hơi rượu tỏa”. Ban đầu, khi mới bị trói “hơi rượu còn nồng nàn”, Mị vẫn đắm chìm trong tiếng sáo vi vu, tiếng sáo đưa Mị phiêu du theo những đám chơi, cuộc chơi kì thú, theo những giai điệu tình tứ của đôi lứa hò hẹn yêu nhau “ Em không yêu quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào…” Hơi men nồng nồng nàn khiến Mị như quên đi thực tại, quên luôn cả những đớn đau thể xác và những vòng kìm kẹp, đến nỗi trong giây phút niềm khát khao cuộc sống mãnh liệt “Mị vùng bước đi”! Nhưng thực tế là những sợi dây trói vẫn đang thít chặt, nó như túm lấy linh hồn đang nở hoa của Mị mà tàn nhẫn kéo mạnh xuống, không thương, không tiếc. Ước mong dẫu mãnh liệt đến thế mà trước hiện thực lạnh lùng vẫn thật yếu đuối, mong manh và bất lực… Sợi dây trói lấy Mị trong đêm tình mùa xuân ấy cũng tựa như hai vòng xiềng xích của cường quyền và thần quyền bủa vây lấy Mị, càng vùng vẫy, càng phản kháng dữ dội thì nó càng siết chặt đến rỉ máu đau thương. “ Tiếng chân ngựa đạp vách “hiện ra ngay sau đó như một biểu tượng đối lập với tiếng sáo, sự tự do “ Mị không nghe tiếng sáo nữ. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách”. Hiện thực tàn nhẫn bóp nghẹt những mầm hoa khát vọng, ước muốn của con người khiến Mị thấm thía nỗi đau, “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Tài liệu được tổng hợp và chỉnh sửa bởi page cô Tuyết Mai dạy Ngữ văn. Trong suốt cả đêm ấy, Mị như nếm trải đến tận cùng mọi nỗi đau của một kiếp trần thế, lần lượt gặm nhấm cảm xúc, nỗi đau này đến nỗi đau khác. Quả thực trong đoạn trích trên, Tô Hoài đã đặt nhân vật của mình vào một hoàn cảnh vô cùng căng thẳng và đau đớn, làm bộc lộ những động lực tiềm ẩn sâu xa trong miền đất thâm u của tâm hồn nhân vật cùng với những diễn biến, phát triển được dẫn dắt vô cùng hợp quy luật. Cuộc trỗi dậy lần thứ nhất của Mị không thành công. Mị không thể thoát khỏi địa ngục trần thế là gia đình cha con thống lí nhưng Mị không còn là con ngựa, con rùa lùi lũi nơi xó cửa nữa . Mị đã sống lại những thời khắc của tuổi thanh xuân tươi trẻ, đẹp đẽ và tự do. Cuộc trỗi dậy ấy như một đợt sóng dâng lên rồi nhanh chóng tan ra dù chưa làm thay đổi cuộc đời Mị song những đợt sóng ngầm của cảm xúc đến lúc nào đó sẽ tuôn trào mạnh mẽ mà bằng chứng là hành động Mị liều lĩnh cởi trói cứu A Phủ và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài.

Có thể nói, đoạn trích đêm tình mùa xuân của Vợ chống A Phủ đã thực sự chinh phục trái tim độc giả dù là những độc giả khó tính nhất. Một trong những nguyên nhân làm nên sự ấn tượng sâu sắc của đoạn trích trên với người đọc, ngoài tình tiết hấp dẫn, sự hồi sinh của Mị thì đó còn là tài năng của nhà văn họ Tô trong việc sử dụng đắc đạo những ngôn từ giàu chất gợi, những biện pháp nghệ thuật đặc sắc cùng sự sắc sảo trong lối dẫn dắt tâm lí nhân vật của ông. Nhưng trên hết đó là lối trần thuật linh hoạt, lời văn tinh tế và giàu chất thơ. Chất thơ trong sáng tác của Tô Hoài được thể hiện rất rõ qua bức họa mùa xuân đầy nhựa sống của Hồng Ngài. Chỉ với vài câu văn ngắn gọn, tác giả đã lột tả được hết hồn cốt của thiên nhiên Tây Bắc trong những ngày giáp tết “ Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong.. xếp yên đầy các nhà kho”, “trẻ con đốt những lều canh nương”, “ gió thổi cỏ gianh vàng ửng… những chiếc váy hoa.. xòe như con bướm sặc sỡ”. Tài liệu được tổng hợp và chỉnh sửa bởi page cô Tuyết Mai dạy Ngữ văn. Đặc biệt, chất thơ trong ngòi bút Tô Hoài còn được thể hiện trong việc ông đan lồng thành công những hình ảnh, âm thanh của tiếng sáo. Có thể nói, nghệ thuật miêu tả tiếng sáo song song tâm trạng nhân vật của nhà văn Tô đoạn này rất tài hoa. Tám lần ông miêu tả tiếng sáo kể về những cô gái, chàng trai thổi sáo, hát tình ca, tâm hồn thổn thức đi theo tiếng sáo. Ba lần ông đặc tả tiếng sáo:” văng vẳng tiếng sáo”, “tiếng sáo lửng lơ bay”, “trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo”. Tiếng sáo như được ngòi bút Tô Hoài đưa từ ngoài rồi từ từ lặng lẽ thâm nhập vào miền đất thâm u nơi tâm hồn Mị. Những từ tượng thanh kết hợp nghệ thuật đảo âm tiết, đảo từ đã khiến những thanh âm của thứ nhạc cụ kì diệu ấy trở nên sống động, có hồn, có nhịp thở và ấn tượng xiết bao. Và nhờ đó, những cung bậc cảm xúc của Mị trở nên phong phú, cụ thể và hợp lý đến bất ngờ. Tuy nhiên đó chưa phải tất cả, nói tới Tô Hoài người ta không thể không nhắc tới danh hiệu “ nhà văn của phong tục”. Đoạn trích đêm tình mùa xuân của Vợ chồng A Phủ đã thực sự mở rộng lăng kính và vốn hiểu biết của người đọc. Những hoạt động vui xuân cổ truyền của người dân Hồng Ngài như “chơi quay, đánh pao, thổi sáo, thổi kèn..” quả thực đã vẽ nên một thiên họa tuyệt mĩ về tập tục văn hóa lâu đời, đậm đà bản sắc của miền cao Tây Bắc khiến lồng ngực độc giả cũng phải thổn thức theo từng nhịp.

Nhà văn Nguyễn Khải từng nói: “Văn chương có quyền nhưng không chỉ miêu tả cái xấu xa, cái ghê tởm, cải hèn nhát. Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thuỷ chung”. Thực vậy, trong đoạn trích phần đầu của tác phẩm“ Vợ chồng A Phủ” ,mặc dù nhìn chung, đó là bức họa hiện thực trần trụi đầy màu đen, phơi bày bộ mặt thật của bọn phong kiến chúa đất nơi miền núi song đó cũng là pho tượng nghệ thuật tuyệt vời về sức sống tiềm tàng mãnh liệt, luôn âm ỉ cháy trong lồng ngực của những con người lao động lam lũ nơi đây. Phải chăng đây chính là “ hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người “ mà nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng nhắc tới? Tác phẩm Vợ chồng A Phủ dẫu ra đời từ năm 1952 nhưng cho tới nay, qua bao năm thiên truyện vẫn giữ nguyên giá trị như thuở sơ nguyên ban đầu, vượt qua mọi băng hoại của thời gian và lưu giữ trong trái tim người đọc, có lẽ chính là nhờ ánh sáng thủy chung của “hạt ngọc ẩn sâu” nơi đáy vực con người, hạt ngọc của những ước vọng, khát khao được sống, được tự do và hạnh phúc mãi sáng lên trong trái tim của những con người lao động miền sơn cước như nhân vật Mị của nhà văn Tô Hoài.

Nguồn: Sưu tập

Filed Under: Ngữ Văn; Tagged With: vợ chồng a phủ

Phân tích đoạn đối thoại giữa Hồn Trương Ba và xác hàng thịt

Tác giả Tùng Teng posted 21/03/2024

Phân tích đoạn đối thoại giữa Hồn Trương Ba và xác hàng thịt trong tác phẩm: Hồn Trương Ba da hàng thịt của LƯU QUANG VŨ. Cùng Onthidgnl tham khảo bài phân tích dưới đây nhé!

Phân tích đoạn đối thoại giữa Hồn Trương Ba và xác hàng thịt

MỞ BÀI

– Sau 1975, cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi, nước nhà hoàn toàn độc lập. Nhưng đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn. Cuộc sống với “muôn mặt đời thường” đã trở lại sau chiến tranh. Nhiều vấn đề về con người và đời sống nhân sinh nảy sinh, con người Việt Nam trong chiến tranh đã quen sống vì cộng đồng, vì những gì lớn lao nay đã chuyển sang thời kỳ mới lạ phải quan tâm đến cái tôi, cho cuộc sống riêng tư. Khi cuộc chiến đã lùi xa, người ta phải nghĩ đến chuyện phải làm sao cho đời sống của cá nhân trong xã hội phải đạt đến sự hoàn thiện cả về vật chất lẫn tinh thần. Sống trong bối cảnh lịch sử xã hội bộn bề, phức tạp đó,Lưu Quang Vũ mạnh mẽ đặt ra những vấn đề có ý nghĩa thời đại sâu sắc thông qua những triết lý về cuộc đời, về lẽ sống, cái chết. Ý tưởng nghệ thuật đó được ông gửi gắm qua vở kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt”. Từ một cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng thành một vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa triết lí và nhân văn sâu sắc. Trong vở kịch, tác giả đã dựng nên nhiều đoạn đối thoại nhưng tiêu biểu là đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt.

THÂN BÀI

GIỚI THIỆU TÁC GIẢ TÁC PHẨM

– Lưu Quang Vũ (1948 -1988) quê ở Đà Nẵng, sinh ra tại Phú Thọ trong một gia đình trí thức. Ông là tác giả tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Trước Khi trở thành nhà soạn kịch xuất sắc của nền kịch Việt Nam, Lưu Quang Vũ Đã là một nhà thơ, một cây bút truyện ngắn tiêu biểu. Vào những năm tám mươi của thế kỉ XX, Lưu Quang Vũ đã trở thành nhà soạn kịch xuất sắc của nền kịch hiện đại Việt Nam. Các tác phẩm kịch tiêu biểu của nhà văn là:“Sống mãi tuổi mười bảy”, Nàng Xita”, “Lời nói dối cuối cùng”, “Lời thề thứ 9”, “Tôi và chúng ta”, “Ai là thủ phạm’, “Ông không phải là bố tôi”,“Điều không thể mất”, “Ai là thủ phạm”, “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”…Kịch của Lưu Quang Vũ mang tính thời sự, tính hiện đại và giàu giá trị nhân văn nhân đạo. Ông qua đời trong một tai nạn thảm khốc năm 1988 giữa khi tài năng đang nở rộ. Lưu Quang Vũ được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học năm 2000.
– “Hồn Trương Ba, da Hàng Thịt” là một vở kịch xuất sắc của Lưu Quang Vũ. Vở kịch này được Lưu Quang Vũ viết năm 1981 nhưng đến năm 1984 mới ra mắt công chúng. Sau đó, vở kịch được công diễn nhiều lần trên sân khấu trong và ngoài nước. Vở kịch gồm 7 cảnh và một màn kết. Đoạn trích trong sách giáo khoa thuộc cảnh 7 và màn cuối cùng. Qua các cuộc đối thoại: giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt, giữa hồn Trương Ba và người thân, giữa hồn Trương Ba và Đế Thích, tác phẩm phản ánh bi kịch của con người khi bị đặt vào nghịch cảnh phải sống nhờ, sống vay mượn, trái với tự nhiên khiến tâm hồn nhân vật vốn nhân hậu, thanh cao bị tha hóa bởi sự lấn át của thể xác thô lỗ, phàm tục. Vở kịch cũng ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự giả tạo và dung tục, bảo vệ quyền được sống đích thực cùng khát vọng hoàn thiện nhân cách. Tác giả gửi tới người đọc nhiều thông điệp giàu giá trị nhân văn: sống không chỉ là tồn tại mà sống phải có ý nghĩa; con người chỉ thực sự hạnh phúc khi được sống hài hòa giữa thể xác và tâm hồn; con người phải đấu tranh chống cái ác, cái xấu để vươn tới cái tốt đẹp, cao thượng.

PHÂN TÍCH ĐOẠN ĐỐI THOẠI GIỮA HỒN TRƯƠNG BA VÀ XÁC HÀNG THỊT

A. Giới thiệu khái quát đoạn đối thoại

– “Hồn Trương Ba da hàng thịt” được Lưu Quang Vũ sáng tác theo hướng khai thác cốt truyện dân gian để suy ngẫm về nhân sinh và hạnh phúc con người. Cốt truyện dân gian kể lại rằng: Trương Ba vốn giỏi đánh cờ bị Nam Tào, Bắc Đẩu bắt chết nhầm. Vì muốn sửa sai Nam Tào và Đế Thích cho hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt – vừa mới chết để sống nhờ. Từ Khi sống trong thân xác anh hàng thịt, hồn ông Trương Ba không hề băn khoăn day dứt vì tình trạng sống nhờ của mình, chỉ có điều xung đột giữa vợ hàng thịt và vợ Trương Ba rất gay gắt. Cuối tác phẩm, hồn Trương Ba được quan xử cho về sống với vợ. Ông Trương Ba vẫn nghiễm nhiên về sống với vợ mặc dù mang trên mình thân xác kềnh càng, thô lỗ của anh hàng thịt. Đi Vào vở kịch của Lưu Quang Vũ, nhà văn đã đào sâu một tình huống kịch mới: bi kịch của ông Trương Ba khi phải sống “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”. Cuộc sống rắc rối, éo le, giả dối khi phải sống nhờ thân xác anh hàng thịt khiến hồn Trương Ba vô cùng đau đớn. Cuối cùng Trương Ba Quyết định từ biệt cõi đời trả lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để bảo vệ nhân tính tốt đẹp, thanh cao của mình, để mọi người nghĩ về mình với những điều tốt đẹp. Đây là một kết thúc giàu tính nhân văn. Cảnh bảy và màn kết của vở kịch bao gồm một loạt các cuộc đối thoại: giữa hồn Trương Ba với xác hàng thịt, hồn Trương Ba với người thân, hồn Trương Ba Với Đế Thích, hồn Trương Ba với vợ.
– Cuộc đối thoại nằm trong cảnh cuối, lúc xung đột trung tâm của vở kịch (linh hồn và thể xác trong nhân vật hồn Trương Ba) lên đến đỉnh điểm. Sau Mấy tháng sống trong tình trạng “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”nhân vật hồn Trương Ba trở nên xa lạ đối với bạn bè, người thân trong gia đình. Tâm trạng ấy được thể hiện qua lời nói của nhân vật ở ngay đầu đoạn trích: “Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này nữa! (nhìn chân tay, thân thể). Tôi chán cái chỗ không phải là của tôi này lắm rồi. Cái thân thể kềnh càng, thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi tức khắc. Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó được tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát”. Qua Đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt, Lưu Quang Vũ đã phản ánh bi kịch bị tha hóa của ông Trương Ba và gửi gắm nhiều triết lý sâu sắc…

B. Phân tích cụ thể

– Cuộc đối thoại giữa Hồn Trương Ba và xác hàng thịt là cuộc đối thoại căng thẳng, quyết liệt. Có thể thấy tình huống kịch ở đây diễn biến qua hai bước.Bước một: Hồn Trương Ba cảm thấy không thể sống như thế này mãi, hồn Trương Ba muốn tách ra khỏi thân xác kềnh càng, thô lỗ. Với sự giễu cợt của xác khiến hồn càng khổ đau, cảm thấy bế tắc. Bước hai: Hành động kịch đẩy mâu thuẫn lên cao trào: xác hàng thịt tỏ ra lấn lướt hồn Trương Ba, xỉ nhục hồn Trương Ba; Hồn Trương Ba đau khổ đến tột độ và thấy không thể chịu đựng được nữa. Trong cuộc đối thoại này, xác đắc thắng cười cợt sự tha hóa của hồn. Hồn ra sức bảo vệ sự trong sáng của bản thân một cách yếu ớt.Những lời thoại của xác là những câu thoại rất dài, đưa ra nhiều dẫn chứng về sự tha hóa của hồn, và nhiều quan điểm mà xác đưa ra không phải không có lý. Ngược lại lời thoại của hồn ngày càng ngắn và sử dụng nhiều dấu vuông lửng thể hiện sự đuối lý, phản ứng yếu ớt của hồn.

– Từ khi sống nhờ thân xác anh hàng thịt, tâm hồn Trương Ba đành phải chiều theo một số nhu cầu tự nhiên của xác anh hàng thịt. Linh hồn vốn nhân hậu, trong sạch và bản tính ngay thẳng của Trương Ba xưa kia, nay vì sống mượn và lệ thuộc nên chẳng những đã không sai khiến được xác anh hàng thịt thô phàm mà trái lại còn bị xác ấy điều khiển, dần dần bị nhiễm độc, bị tha hóa bởi những cái tầm thường, đầy ham muốn vật chất thấp kém của xác thịt anh đồ tể như: Thèm ăn ngon, thèm rượu thịt,thèm các món tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi. Thậm chí đã có lúc hồn Trương Ba sắp ngã vào tay chị vợ anh hàng thịt: “Khi ông ở bên nhà tôi…Khi ông đứng bên cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại…Đêm hôm đó suýt nữa thì…”. Rồi ông Trương Ba còn thẳng tay tát thằng con trai tóe máu mồm máu mũi.

Ý thức được điều đó, hồn Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác anh hàng thịt để tồn tại độc lập, không lệ thuộc vào thể xác: “Không! Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn,trong sạch, thẳng thắn”.

– Xác anh hàng thịt biết rõ những cố gắng đó là vô ích nên đã cười, mỉa mai,nhạo báng Trương Ba: “Nực cười thật. Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi, mà còn nhận là nguyên vẹn, thẳng thắn”. Mặt khác xác hàng thịt tuyên bố về sức mạnh âm u, đui mù, ghê gớm của mình:“Mà đáng nhẽ ông phải cảm ơn tôi. Tôi đã cho ông sức mạnh. Ông có nhớ hôm ông tát thằng con ông tóe máu mồm máu mũi không? Cơn giận của ông lại có sức mạnh của tôi…”. Hơn nữa xác hàng thịt còn ve vãn hồn Trương Ba thỏa hiệp vì cả hai đã hòa vào nhau làm một rồi.

– Xác hàng thịt đưa ra những quan điểm không phải không có lý: “Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông cứ vin vào cái cớ tâm hồn là quý, khuyên con người ta sống vì phần hồn, để rồi bỏ bê thân xác họ mãi khổ sở, nhếch nhác.” Những lí lẽ của anh hàng thịt khiến Hồn Trương Ba dường như không nói được gì. Lưu Quang Vũ cũng qua đó mà khẳng định rằng: linh hồn quan trọng nhưng đừng bỏ bê thể xác, đừng để cho thể xác nhếch nhác…

– Trước những lời lẽ của xác hàng thịt, Trương Ba đã nổi giận, đã khinh bỉ,đã mắng mỏ xác hàng thịt là hèn hạ: “lí lẽ của anh thật ti tiện”. Nhưng vì khao khát được sống, được tồn tại, ông Trương Ba phải chấp nhận những yêu cầu của xác hàng thịt. Đồng thời ông Trương Ba cũng ngậm ngùi chua chát, thấm thía cái nghịch cảnh mà mình đã lâm vào và đành nhập trở lại xác hàng thịt trong nỗi tuyệt vọng. Từ đó đi đến giải pháp “chung sống hòa bình” mang tên “Hồn Trương Ba da hàng thịt” bằng trò chơi tâm hồn. Luật Chơi là hồn cứ nghĩ là mình cao khiết, thánh thiện, thẳng thắn, khi làm việc gì xấu cứ việc đổ tội cho xác để được thanh thản: “Những lúc một mình một bóng, ông cứ việc nghĩ rằng ông có một tâm hồn bên trong cao khiết, chẳng qua vì hoàn cảnh, vì để sống mà ông phải nhân nhượng tôi. Làm xong điều xấu gì ông cứ việc đổ lỗi cho tôi, để ông được thanh thản. Tôi biết: cần phải để cho tính tự ái của ông được ve vuốt”. Bù lại, hồn sẽ làm mọi việc để thỏa mãn những thèm khát tầm thường của thể xác: “miễn là… ông vẫn làm đủ mọi việc để thỏa mãn những thèm khát của tôi”. Điều này cũng đã phản ánh một hiện thực nóng bỏng của lối sống con người trong xã hội lúc bấy giờ mọi thời đại. Có những kẻ bất chấp tất cả để đạt được những danh lợi. Qua đây, Lưu Quang Vũ muốn khuyên con người phải luôn biết đấu tranh chống lại cái ác, cái xấu xa, ích kỉ trong bản thân mình để vươn tới cái tốt đẹp, cao thượng. Nhà văn cũng khẳng định: một con người hạnh phúc thì hai phương diện thể xác và tâm hồn hài hòa, thống nhất với nhau.

-Trong đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt ta thấy xác hàng thịt ngày càng thắng thế bởi những lời thoại dài và không phải là không có cơ sở, hồn Trương Ba dần dần đuối lí với những lời thoại ngắn, nhiều khoảng trống thể hiện sự bế tắc, bất lực.

C. KHÁI QUÁT NÂNG CAO

– Như vậy tuy Trương Ba được trả lại cuộc sống nhưng lại là cuộc sống đáng hổ thẹn vì phải sống chung với sự dung tục và bị sự dung tục, tầm thường đồng hóa, ngự trị, lấn át, tàn phá những gì trong sạch, đẹp đẽ trong conngười. Ông Trương Ba bị rơi vào bi kịch bị tha hóa, bị đánh mất mình. Từ Một người thanh cao, giờ đây ông thô lỗ; từ một người yêu thương vợ con,giờ đây ông thẳng tay tát thằng con trai…

– Cuộc đối thoại này đào sâu đến tận cùng nỗi giằng xé trong Trương Ba khiến Hồn như tuyệt vọng. Cuộc đối thoại này giúp chúng ta nhận ra rằng Trương Ba rất ý thức được về sự tồn tại có ý nghĩa của tâm hồn cao thượng,trong sạch; Trương Ba nhận ra rằng tâm hồn đó đang bị thể xác phàm tục làm cho tha hóa, biến chất, làm cho mình không được sống là chính mình.Sự tồn tại một cách vênh váo, khập khiễng giữa thể xác và tâm hồn khiến ông Trương Ba đau khổ bất lực và tuyệt vọng. Điều này vừa cho thấy bi kịch nhưng cũng phần nào thể hiện nhân cách ông Trương Ba. Chẳng qua bị đẩy vào hoàn cảnh trớ trêu, sống nhờ, sống dựa vào thân xác của người khác màông dần đánh mất những phần đẹp đẽ trong con người mình…

– Đời sống con người đâu chỉ gói gọn trong những nhu cầu bản năng, thuần túy nhưng cũng đừng bỏ bê thể xác. Thông qua lời anh hàng thịt, Lưu Quang Vũ muốn phê phán những vị lắm sách nhiều chữ, vin vào cái tâm hồn cao quý, sống vì phần hồn mà bỏ bê phần xác “mãi khổ sở, nhếch nhác để chỉ biết đến một thứ linh hồn chung chung, trừu tượng không thuộc về ai cả trong cõi đời này”. Chúng ta cần phải thấy thể xác hay tâm hồn đều có tiếng nói riêng. Thể xác là tiếng nói của bản năng đời thường và cần phải đáp ứng những nhu cầu chính đáng của thể xác.

– Cuộc đấu tranh giữa linh hồn và thể xác là cuộc đấu tranh giữa đạo đức và tội lỗi, giữa hoài bão cao cả với dục vọng ham muốn tầm thường, giữa phần người và phần con luôn diễn ra hàng ngày, hàng giờ. Hai hình tượng hồn Trương Ba và xác hàng thịt ở đây mang ý nghĩa ẩn dụ: một bên đại diện cho sự trong sạch, nhân hậu, thẳng thắn, khát vọng sống thanh cao, xứng đáng với danh nghĩa con người và một bên là sự tầm thường, dung tục. – Cuộc đối thoại giữa xác hàng thịt và hồn Trương Ba là cuộc đấu tranh giữa thể xác là linh hồn trong một con người. Thể xác và linh hồn có mối quan hệ hữu cơ với nhau, thể xác có tính độc lập, tương đối của nó, có khả năng tác động vào linh hồn, linh hồn phải đấu tranh với những đòi hỏi không chính đáng để hoàn thiện nhân cách.

Từ sự phân tích trên đây cho thấy giữa linh hồn và thể xác, giữa tính cách và ngoại hình phải là sự thống nhất, vẹn toàn.

KẾT BÀI

– Qua màn đối thoại giữa Hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt trong vở kịch“Hồn Trương Ba da hàng thịt”, Lưu Quang Vũ muốn gửi đến chúng ta những thông điệp: Được sống làm người quý giá thật nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn những giá trị mình muốn có và theo đuổi còn quý giá hơn; sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn; con người phải luôn luôn đấu tranh với những nghịch cảnh, chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.

Filed Under: Ngữ Văn; Tagged With: Hồn Trương Ba da hàng thịt

Cập nhật mới về Mở bài Tuyên Ngôn Độc Lập

Tác giả Tùng Teng posted 14/03/2024

Để viết mở bài hay, trước tiên chúng ta cần xác định rõ mục tiêu của phần mở đầu. Phần này cần tạo ra sự hứng thú và thu hút người đọc, đồng thời phải liên kết chặt chẽ với nội dung chính của bài văn. Cùng tham khảo Onthidgnl chia sẻ các mở bài Tuyên Ngôn Độc Lập hay nhất nhé!

Mẫu mở bài gián tiếp Tuyên Ngôn Độc Lập

Mở bài gián tiếp mẫu 1 

Theo chiều dài lịch sử bốn ngàn năm oanh liệt của dân tộc ta đã được ghi dấu bởi rất nhiều dấu mốc lịch sử đáng ghi nhớ gắn với một sự nghiệp đấu tranh trường kỳ chống giặc ngoại xâm của quân và dân ta. Một trong những dấu mốc lịch sử quan trọng nhất đó chính là sự kiện Cách mạng tháng 8 năm 1945 thắng lợi bùng nổ, từ đó đã khai sinh ra đất nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Để tuyên bố với toàn thể nhân dân trên cả nước cũng như toàn thể nhân dân trên thế giới biết được nước Việt Nam ta từ nay là một nước độc lập, Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam đã viết lên bản “ Tuyên ngôn độc lập”. Đây cũng chính là một văn kiện khá đặc biệt vừa mang tính văn học đồng thời mang tính lịch sử trọng đại.

Mở bài gián tiếp mẫu 2 

Mùa thu năm 1945, cả nước ta tưng bừng trong niềm vui. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã tháo xiềng xích nô lệ, áp bức khỏi vai những  người dân Việt Nam, đưa nhân dân Việt Nam vượt qua ngưỡng cửa tăm tối bước ra ánh sáng của độc lập, tự do. Sáng 2/9, một buổi sáng trong xanh với nắng vàng ấm áp, trước hàng triệu đồng bào có mặt tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, chính thức khai sinh ra đất nước Việt Nam mới, một nước Việt Nam tự do, độc lập và dân chủ. Bản tuyên ngôn được Người viết ra trong một tâm trạng vui sướng, phấn khởi nhất. Bằng tất cả trái tim và trí tuệ, bằng những cảm xúc mãnh liệt, Người đã truyền những rung động sâu lắng, thấm thía đến trái tim của hàng triệu người dân, tuyên bố với thế giới một cách cương quyết, hào hùng về sự tồn tại độc lập, chủ quyền của nước ta.

Mở bài gián tiếp mẫu 3 

“Hôm nay sáng mồng hai tháng chín

Thủ đô hoa, vàng nắng Ba Đình

Muôn triệu tim chờ… chim cũng nín

Bỗng vang lên tiếng hát ân tình”

(Theo chân Bác, Tố Hữu)

Đó là sáng mùa thu lịch sử của nhân dân Việt Nam cũng như Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc Việt Nam đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập và khai sinh ra đất nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Phong cách văn chính luận của Người nói chung và Bản Tuyên ngôn độc lập của Người nói riêng đã thể hiện được lối tư duy sắc sảo, một ngòi bút giàu tính luận trong chiến đấu và tài nghệ lập luận kiệt xuất của chủ tịch Hồ Chí Minh 

Mở bài gián tiếp mẫu 4

Nhắc tới tác phẩm Bình Ngô đại cáo của tác giả Nguyễn Trãi, người ta cũng nhớ ngay tới một văn kiện lịch sử, một khúc tráng ca khai sinh của một đất nước đã phải trải qua những hai mươi năm vô cùng khổ cực bởi ách đô hộ và chiến tranh chiến đấu chống giặc Minh. Tác phẩm chính là sự kết tinh của lòng yêu nước mạnh mẽ, ý chí chiến đấu đánh giặc quật cường của một dân tộc đã phải sống trong những ngày tháng đổ máu đầy đau thương, khổ nhục mà rất đỗi vinh quang. Thế nhưng bản cáo ấy đã được nhà văn kiệt xuất Nguyễn Trãi đã viết bằng lối nghệ thuật chính luận đỉnh cao, bậc thầy mà ít tác phẩm cùng thể loại ở thời trung đại có được. Để rồi Bình Ngô đại cáo xứng đáng được gọi là áng “thiên cổ hùng văn”. Lịch sử đã được gọi tên trong “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh. Ba bản tuyên ngôn này đã được coi là những áng thiên cổ hùng văn vĩ đại của dân tộc. Và vượt lên trên điều đó, chúng ta có thể thấy được sức mạnh và tính thuyết phục còn mãnh liệt hơn cả tính nghệ thuật lập luận đã khiến cho Tuyên ngôn độc lập trở thành một bài văn chính luận mẫu mực.

Mở bài gián tiếp mẫu 5 

Nếu như đất Mỹ tự hào vì có bản “Tuyên ngôn độc lập” bất hủ đã được lưu truyền suốt bao nhiêu thế kỷ qua thì người Việt Nam chúng ta cũng có quyền tự hào về những bản tuyên ngôn độc lập vang danh qua các thời kỳ lịch sử vẻ vang của dân tộc. Thời Trần chúng ta có “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt, hay thời Lê ta có áng văn hùng hồn trong “Đại cáo Bình Ngô” của tác giả Nguyễn trãi. Để rồi một lần nữa lịch sử Việt Nam đã lại gọi tên bản “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh. Đây được coi là một trong những áng thiên cổ hùng văn của dân tộc, sánh ngang với những bản tuyên ngôn quốc tế. Ngoài giá trị lịch sử to lớn, bản tuyên ngôn này vượt lên trên tất cả là mang giá trị văn học, nghệ thuật to lớn và trở thành một áng văn chính trị mẫu mực của Bác Hồ.

Mở bài gián tiếp mẫu 6 

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công vang dội, mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc Việt Nam, đó là kỷ nguyên tự do không còn xiềng xích của chế độ thực dân phong kiến, kỷ nguyên ghi dấu ấn của niềm tin, ý chí quật cường của toàn quân và dân ta. Trong không khí vui mừng chiến thắng ấy, ngày 26/8/1945, tại 48 Hàng Ngang – Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt toàn thể Trung ương Đảng soạn thảo bản “Tuyên ngôn độc lập” và sau đó ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình, trước hàng triệu đồng bào Việt Nam, Bác Hồ đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” chính thức khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Công trình này là sự kết tinh trí tuệ của thời đại, là thành quả của mọi nỗ lực, cố gắng của toàn quân, toàn dân và toàn dân tộc Việt Nam anh hùng.

Mở bài Tuyên Ngôn Độc Lập trực tiếp 

Mở bài trực tiếp mẫu 1 

“Tuyên ngôn Độc lập” một trong những tác phẩm nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với giọng văn mạnh mẽ, hùng hồn nhưng lại thống thiết, cùng với những lập luận sắc bén, chặt chẽ, tác phẩm này đã tạo nên được sức thuyết phục cao đối với người đọc, người nghe. Bản “Tuyên ngôn Độc lập” cũng chính là kết quả tốt đẹp của bao nhiêu những người anh hùng đã nằm xuống hy sinh thân mình, bao nhiêu máu đã đổ xuống đua với bom đạn, và bao nhiêu những giọt nước mắt đã tuôn rơi. Đó cũng chính là thành quả, là trái ngọt sau bao thời gian nhân dân và Đảng ta luôn cố gắng, chứa chan bao niềm hy vọng và sự tin tưởng  của hơn 20 triệu người dân đất nước Việt Nam vào ngày đất nước được độc lập.

Mở bài trực tiếp mẫu 2 

Chủ tịch Hồ Chí Minh – Người không chỉ được nhân dân vinh danh là một vị lãnh tụ tài ba, xuất chúng, là một người anh hùng dân tộc dũng cảm, mạnh mẽ đã giúp giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị, giúp đất nước Việt Nam tiến tới độc lập và thoát ra khỏi xiềng xích của nô lệ, thoát khỏi cảnh lầm than. Không chỉ là người anh hùng dân tộc, Người cũng là một nhà thơ, nhà văn lớn của nền văn học dân tộc. Người đã để lại một kho tàng tác phẩm vô cùng đặc sắc cùng với nhiều thế loại đa dạng. Đặc biệt, trong số những tác phẩm, văn bản mà Bác viết thì  không thể không kể tới “Tuyên ngôn độc lập” được ra đời vào thời gian năm 1945 là một trong những tác phẩm được cho là xuất sắc nhất, thành công nhất và tiêu biểu nhất cho phong cách văn chính luận của Người.

Mở bài trực tiếp mẫu 3 

“Tuyên ngôn độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc đồng thời cũng một văn kiện lịch sử quan trọng của dân tộc ta. Không chỉ dừng lại là một áng văn chính luận cực kỳ mẫu mực đã thể hiện được tài năng, trí tuệ cũng như tầm nhìn sâu sắc của chủ tịch Hồ Chí Minh mà Tuyên ngôn độc lập còn là một văn kiện mang ý nghĩa lịch sử to lớn, có tính chính trị chính trị sâu sắc. Bản tuyên ngôn độc lập cũng đã khẳng định nền độc lập, tự do của dân tộc và đất nước Việt Nam đồng thời cũng tuyên bố với toàn thể nhân dân trên thế giới về sự ra đời của đất nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bên cạnh đó cũng cổ vũ phong trào đấu tranh giành độc lập, giải phóng dân tộc cho một số nước đang bị áp bức bóc lột ở trên toàn thế giới.

Mở bài trực tiếp mẫu 4

“Tuyên ngôn độc lập” là một văn kiện lịch sử có ý nghĩa vô cùng to lớn do chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo năm 1945. Tác phẩm là văn kiện đã tuyên bố đất nước ta đã thoát ly hoàn toàn ra khỏi Pháp và chấm dứt đi chế độ thực dân nửa phong kiến trên đất nước ta, đồng thời tác phẩm này cũng đã mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước ta, một kỷ nguyên của sự độc lập tự do. “Tuyên ngôn độc lập” được ra đời trong một thời kỳ lịch sử vô cùng đặc biệt của dân tộc và Đảng. Văn kiện đã được soạn thảo khi chính quyền cách mạng của Đảng ta vẫn còn khá non trẻ khi Đảng ta vừa mới thành lập cách đây không lâu mà đã phải đối mặt với biết bao thử thách nguy hiểm, các thế lực phản động cấu kết với Đế quốc nhăm nhe tước đoạt đi những thành quả mà chúng ta đã đạt được trước đó. Mặc dù vậy, “Tuyên ngôn độc lập” vẫn được soạn thảo và đọc lên cũng mang ý nghĩa lịch sử rất to lớn đối với toàn thể con người của dân tộc ta.

Mở bài trực tiếp mẫu 5 

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng lớn có tinh thần yêu nước mãnh liệt, là một người con ưu tú, dũng cảm của dân tộc Việt Nam. Đồng thời, Người cũng đã để lại cho toàn bộ nhân dân ta một sự nghiệp văn học to lớn về tầm vóc, phong phú, đa dạng về nhiều thể loại và cũng đặc sắc về phong cách, khả năng sáng tạo. Trong mỗi thể loại văn học, từ thể loại văn chính luận, cho tới truyện, kí và thơ ca thì chủ tịch Hồ Chí Minh đều gây dựng được những nét phong cách rất riêng, độc đáo và vô cùng hấp dẫn. Nhắc tới phong cách văn chính luận thì người ta không thể không kể tới tác phẩm “Tuyên ngôn Độc lập” – tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật lập luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Mở bài trực tiếp mẫu 6 

Chủ tịch Hồ Chí Minh, một vị lãnh tụ vĩ đại, người Cha già của dân tộc Việt Nam đã dành cả cuộc đời của bản thân để chăm lo cho nhân dân, phục vụ đất nước. Người không chỉ là một nhà chính trị tài ba mà còn là một nhà văn, nhà thơ đa tài, xuất sắc với kho tàng văn thơ đồ sộ. Trong khoảng thời gian hoạt động cách mạng, Người đã nhận ra được sức mạnh của văn chương trong cách mạng và đã sử dụng nó như một thứ vũ khí mạnh mẽ để tấn công kẻ thù, khích lệ tinh thần của quần chúng nhân dân. Trong vô vàn các tác phẩm để đời của Bác, nổi bật lên chính là tác phẩm “Tuyên ngôn độc lập” được chắp bút khi Người vừa rời chiến khu Việt Bắc và trở về Hà Nội năm 1945. Tác phẩm không chỉ là ẩn chứa những khát vọng, khao khát cháy bỏng về nền độc lập tự do của dân tộc mà còn lên án được tội ác ghê rợn của kẻ thù, vạch trần bộ mặt xảo trá của đế quốc thực dân bè lũ tay sai.

Mở bài trực tiếp mẫu 7

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ vĩ đại với toàn bộ khát vọng và nhân cách cao đẹp của Người đều  đã thể hiện  được trong sự nghiệp cách mạng, quân sự, ngoại giao, giáo dục và văn hóa,… Trong số đó  mà sự nghiệp văn chương là một trong những điểm nhấn  rất quan trọng khi đã nói về tư tưởng đạo đức và phong cách  của Hồ Chí Minh. Người viết văn không  chỉ để thỏa mãn với cái thú tao nhã của văn nhân nghĩa sĩ, mà còn sinh thời văn thơ của Người luôn đóng với  một vai trò rất quan trọng trong công việc phục vụ kháng chiến và phục vụ  cho cách mạng để  đi đến thành công. Có thể nói rằng trong bước đường cách mạng suốt cả cuộc đời thì văn thơ của Người luôn theo sát và đóng vai trò bổ trợ  ở mọi lúc mọi nơi. Điển hình cho việc văn học song hành với cách mạng thì phải kể đến  với tác phẩm đã sáng giá nhất của Hồ Chủ tịch, văn kiện rất có ý nghĩa  với lịch vô cùng quan trọng, đã đặt dấu mốc quan trọng cho nền độc lập của dân tộc ấy là bản Tuyên ngôn độc lập  đã  được Bác tuyên đọc vào ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội tên khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Mở bài Tuyên Ngôn Độc Lập ngắn gọn

Mở bài ngắn gọn mẫu 1 

Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta không chỉ là vị lãnh tụ thiên tài, mà còn một nhà văn, nhà thơ lớn của văn học dân tộc. Đặc biệt nhất chúng ta phải kể tới tài năng lập luận trong văn chính luận của Người, điều đó được thể hiện rõ qua bản “Tuyên ngôn độc lập”.

Mở bài ngắn gọn mẫu 2 

Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại của chúng ta không chỉ được biết đến với vai trò là một nhà lãnh đạo kiệt xuất. Mà còn là một nhà văn, nhà thơ để lại cho văn học nhiều tác phẩm có giá trị. Trong đó, bản “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh được coi là “áng văn chính luận mẫu mực” nhất của mọi thời đại.

Mở bài ngắn gọn mẫu 3 

“Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh đã được nhận xét là một “áng văn chính luận mẫu mực nhất mọi thời đại”. Điều đó được thể hiện thông qua những giá trị nghệ thuật mà bản Tuyên ngôn đem lại.

Mở bài ngắn gọn mẫu 4

Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, ngày mùng 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đứng trước hàng triệu đồng bào đọc bản “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Văn chính luận của Người nói chung, “Tuyên ngôn độc lập” của Người nói riêng đã thể hiện được một tầm tư tưởng lớn.

Mở bài ngắn gọn mẫu 5 

“Tuyên ngôn độc lập” là một văn kiện lịch sử có giá trị chính trị to lớn do chủ tịch Hồ Chí Minh viết. Tác phẩm là văn kiện tuyên bố chấm dứt chế độ thực dân phong kiến đè nặng lên vai nhân dân nước ta đồng thời mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của độc lập tự do.

Mở bài ngắn gọn mẫu 6 

Bản “Tuyên ngôn Độc lập” ngày 2 tháng 9 năm 1945 là một văn kiện lịch sử có giá trị và ý nghĩa lịch sử to lớn. Bản tuyên ngôn đã tuyên bố thủ tiêu chế độ thực dân và phong kiến trên đất nước ta, khai sinh ra đất nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỉ nguyên mới độc lập, tự do của dân tộc.

Mở bài ngắn gọn mẫu 7

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà cách mạng vĩ đại mà còn là một cây bút  rất nghệ thuật  với đầy tài hoa của dân tộc. Thơ văn Bác vừa mang sắc thái cổ điển  lại vừa mang sắc thái hiện đại lại đầy sáng tạo  mà lại mang những giá trị tư tưởng cao. Nếu trong thơ trữ tình, ta  đã bắt gặp những lời thơ tràn ngập niềm lạc quan và tinh thần đầy  tính tự do và rất là  phóng khoáng thì trong văn học chính luận là những áng văn đầy khúc chiết, chặt chẽ và có sức lay động  rất mạnh mẽ tới tâm hồn người đọc và  người nghe. Tuyên ngôn độc lập mà  là một tác phẩm chính luận đầy mẫu mực của Bác, nó  đã chứa đựng những tình cảm thiết tha và  những tư tưởng mang tầm thời đại và với  những kết tinh và  những vẻ đẹp tinh túy của dân tộc Việt Nam.

Mở bài ngắn gọn mẫu 8

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những nhà cách mạng rất yêu nước và là một người con ưu tú của nền dân tộc Việt Nam. Đồng thời, Người cũng đã để lại cho  người nhân dân ta với một sự nghiệp văn chương thật  lớn lao về tầm vóc; phong phú và rất  đa dạng về thể loại và đặc sắc về phong cách sáng tạo. Ở mỗi thể loại văn họcvà với từ văn chính luận, truyện và kí đến thơ ca  của Hồ Chí Minh đều  đã tạo  ra được những nét  rất phong cách riêng và độc đáo với  hấp dẫn. Nhắc đến văn chính luận, người ta không thể không nhắc đến “Tuyên ngôn Độc lập”  tác phẩm rất tiêu biểu cho nghệ thuật lập luận của Hồ Chí Minh.

Mở bài ngắn gọn mẫu 9

“Tuyên ngôn độc lập” là một văn kiện lịch sử có giá trị rất to lớn do chủ tịch Hồ Chí Minh viết. Tác phẩm là văn kiện tuyên bố đã chấm dứt chế độ thực dân phong kiến nước ta,  đồng thời mở ra kỷ nguyên mới và kỷ nguyên của độc lập tự do. “Tuyên ngôn độc lập” đã ra đời trong hoàn cảnh lịch sử vô cùng đặc biệt. Tuyên ngôn đã được ra đời khi chính quyền cách mạng non trẻ vừa mới thành lập đã phải đối mặt với nhiều thử thách., thế lực phản động cấu kết đã nhằm tước đoạt thành quả mà chúng ta đã đạt được. Mặc dù vậy,  nhưng Tuyên ngôn vẫn được ra đời và có ý nghĩa lịch sử rất to lớn đối với dân tộc ta.

Mở bài tuyên ngôn độc lập mẫu 10

Hồ Chí Minh không chỉ là một trong những nhà lãnh đạo thiên tài mà còn là một nhà thơ và nhà văn kiệt xuất. Những áng văn chính luận của Người không chỉ đanh thép mà rất là sắc sảo mà còn tác động rất  mạnh mẽ đến tâm thức của người đọc, tất cả đều nhờ vào nghệ thuật lập luận tài tình, sắc bén. Có thể coi Tuyên ngôn độc lập là một áng văn chính luận không chỉ của riêng Bác mà là của cả văn học dân tộc.

Mở bài Tuyên Ngôn Độc Lập nâng cao 

Mở bài nâng cao 1

“Nam quốc sơn hà nam đế cư 

Tiệt nhiên phận định tại thiên thư 

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”

Là những lời thơ thần của Lý Thường Kiệt vang dội trên sông Như Nguyệt để đánh đuổi quân Tống xâm lược cũng như khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc ta dưới thời nhà Lý. Sau hàng nghìn năm nhân dân Việt Nam sống dưới chế độ quân chủ, trăm năm Pháp thuộc, 5 năm phát xít… thì giờ đây thực dân Pháp đang âm mưu quay lại cướp nước ta lần nữa dưới chiêu bài lừa bịp công luận quốc tế “bảo hộ” và “khai hóa”, để khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc ta cũng như vạch mặt, tố cáo thực dân Pháp thì chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho ra đời Bản Tuyên Ngôn Độc Lập. Đây là một áng văn chính luận mẫu mực của nền văn học Việt Nam hiện đại, kết tinh những tinh hoa của dân tộc và khí phách non sông, mang giá trị pháp lí, giá trị lịch sử và cả giá trị nghệ thuật cao cả. Trước sự chứng kiến của hơn 50 vạn đồng bào cả nước tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, bằng bút pháp lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, dẫn chứng hùng hồn và giọng đọc đặc biệt thì Bản Tuyên Ngôn độc lập đã khơi dậy lòng yêu nước nồng nàn, thấm nhuần vào từng con tim, khối óc con người Việt Nam.

Mở bài nâng cao 2

Vào những thời điểm chuyển mình của lịch sử một dân tộc thường xuất hiện những ánh văn bất hủ, đánh dấu cho một thời đại. Không phải ngẫu nhiên người ta hay nhắc đến những tuyên ngôn nổi tiếng thế giới như Tuyên ngôn Độc lập của người Mĩ năm 1776, tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791. Lịch sử dân tộc ta cũng có những bản tuyên ngôn như vậy. Đó là “Bình ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi vào thế kỉ XV và “Tuyên ngôn độc lập” do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và đọc ngày 2-9-1945 tại quảng trường Ba Đình lịch sử. Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh từ lâu vẫn được coi là “một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn, một bài văn chính luận ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, đanh thép, lời lẽ hùng hồn, đầy sức thuyết phục”. Có thể nói bản Tuyên ngôn là kết tinh trí tuệ của thời đại, là kết quả cao của “bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng” của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam.

Mở bài sưu tập khác

Story pin image

Story pin image

Đang update thêm cho năm 2024…

Viết mở bài cũng là một kỹ năng quan trọng cần rèn luyện để không tốn quá nhiều thời gian khi bước vào phòng thi. Các cách viết mở bài Tuyên ngôn Độc Lập đã được tổng hợp và chia sẻ để các bạn có thể tham khảo và áp dụng vào bài viết của mình. Chúc các bạn ôn thi thành công!

Filed Under: Ngữ Văn; Tagged With: tuyên ngôn độc lập

Mở bài chiếc thuyền ngoài xa cập nhật mới

Tác giả Tùng Teng posted 13/03/2024

Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những tác phẩm đặc sắc của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Tác phẩm này đã từng được chọn để đưa vào đề thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn, do đó, nó rất đáng để chú ý và ôn tập kỹ lưỡng. Vì vậy, dưới đây, Onthidgnl đã tổng hợp các cách mở bài Chiếc thuyền ngoài xa để các bạn có thể tham khảo và học tập từ những cách mở bài đó nhé.

Mở bài chiếc thuyền ngoài xa cập nhật mới

Mẫu mở bài gián tiếp Chiếc thuyền ngoài xa

Mở bài gián tiếp 1

Sau khi đất nước thống nhất, nền văn học Việt Nam mang nhiều đổi mới, các tác giả đã bắt đầu chú ý và chuyển sang viết về những chủ đề đạo đức thế sự, nhân vật trung tâm không chỉ là những người hùng cách mạng, những con người lý tưởng với vẻ đẹp của cộng đồng như nhân vật Việt hay Tnú của Nguyễn Thi và Nguyên Ngọc. Mà nhân vật trung tâm ở trong những tác phẩm trong giai đoạn sau năm 1975 lại là những con người ngoài đời thường, những con người không hoàn toàn lý tưởng nhưng trong họ có sự hoà hợp giữa rồng phượng và rắn rết. Cũng từ ấy tác giả chú tâm đến việc khai thác những diễn biến trong đời sống nội tâm của họ để đem đến cho người đọc những cái nhìn mới mẻ trên phương diện nhân đạo với hiện thực cuộc đời. Nguyễn Minh châu chính là một trong những tác giả như vậy, ông được đánh giá là một con người mở đường tinh anh và tài hoa cho nền văn học Việt Nam vào thời kỳ đổi mới. Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa được coi là tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Nguyễn Minh Châu giai đoạn này, với cách nhìn và sự khai thác nhân vật hết sức mới mẻ, góc nhìn đi từ tình huống truyện vô cùng độc đáo, tác giả đã đem tới cho độc giả những giá trị hết sức nhân đạo sâu sắc mà ông còn gửi gắm vào trong tác phẩm và trong từng nhân vật của mình.

Mở bài gián tiếp 2

Có thể thấy được cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu trước năm 1975 chính là cảm hứng về anh hùng cách mạng, còn sau năm 1975 là cảm hứng về nhân cách của con người, là hành trình để “khám phá con người bên trong con người” (Bakhtin). Theo mạch cảm hứng đó, năm 1982 Nguyễn Minh Châu đã viết truyện ngắn Bức tranh; trong ý nghĩ tự phán xét, nhân vật hoạ sĩ đã vẽ nên một bức chân dung tự hoạ để thể hiện “khuôn mặt bên trong của chính mình”. Đáng lưu ý hơn đó là, nếu trong truyện Bức tranh, nhà văn Nguyễn Minh Châu hướng cái nhìn nghệ thuật tới thế giới nội tâm thì trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu lại hướng tới cái nhìn nghệ thuật ra ngoài thế giới, ra cuộc sống đời thường. Đặc biệt, truyện Chiếc thuyền ngoài xa đã mang tới một bài học vô cùng đúng đắn về cách nhìn nhận của cuộc sống và con người: một cách nhìn vừa đa diện, nhiều chiều lại phát hiện ra bản chất thật sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng.

Nguyễn Minh Châu được mệnh danh “Là một trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học”. Trước cách mạng sáng tác của ông lại thiên về khuynh hướng sử thi cùng cảm hứng lãng mạn, sau cách mạng bằng sự tìm tòi và đổi mới, ngòi bút của ông lại hướng hẳn vào những vấn đề về thế sự, đời tư và đi sâu vào trong cuộc sống của con người. Chiếc thuyền ngoài xa đã khai thác sâu sắc số phận của cá nhân và thân phận của con người trong cuộc sống đời thường muôn mặt. Tác phẩm mang lại đặc trưng trong phong cách sáng tác của ông sau giai đoạn cách mạng.

Mở bài gián tiếp 3

Nhà văn Nguyễn Minh Châu là một trong các tác giả nổi tiếng trong làng văn học Việt Nam giai đoạn đổi mới. Ông được mệnh danh là người “mở đường tài năng và tinh anh nhất”. Trước năm 1975, ông là một cây bút theo phong cách sử thi lãng mạn, viết nhiều về chủ đề người lính. Tuy nhiên, sau năm 1980, sáng tác của ông lại đi sâu vào cảm hứng đời tư thế sự cùng với vấn đề đạo đức và triết lý nhân sinh. Ông khám phá được con người trong cuộc sống mưu sinh, trong hành trình vất vả kiếm tìm hạnh phúc và khám phá hạt ngọc ẩn dấu, khuất lấp trong từng con người. Tiêu biểu cho những sự tìm tòi đề tài và trách nhiệm của người nghệ sĩ chính là tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa. Truyện ngắn được ra đời vào tháng 8 năm 1983 được in trong tập truyện ngắn cùng tên, khi mà cuộc chiến tranh vệ quốc của dân tộc đã qua đi. Đất nước bắt đầu bước vào công cuộc mới, thời kỳ của độc lập thống nhất. Cuộc sống thời bình cùng với muôn mặt trong đời sống, đặt ra nhu cầu về nhận thức trong hiện thực và cuộc sống của con người trước đây vì hoàn cảnh của chiến tranh vẫn chưa được đặt ra

Là một tác phẩm có thể đáp ứng được nhu cầu đó, ”Chiếc thuyền ngoài xa” đã trở thành một tác phẩm có thể nói là xuất sắc nhất của tác giả Nguyễn Minh Châu và tiêu biểu cho cảm hứng trong đời tư thế sự, xu hướng chung của nền văn học Việt Nam giai đoạn đổi mới.

Mở bài gián tiếp 4

Nguyễn Minh Châu (sinh năm 1930, mất năm 1989) là nhà văn trưởng thành trong công cuộc kháng chiến chống giặc Mỹ của dân tộc, những tác phẩm của ông có nhiều ảnh hưởng tới nền văn học của Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh cũng như đầu giai đoạn đổi mới. Xứng đáng với vai trò là một nhà văn mở đường tinh anh và tài hoa thời kỳ hậu chiến, những tác phẩm của nhà văn Nguyễn Minh Châu không còn chú ý đến xoay vần trong sự khó khăn của chiến trường thay vào đó ông đã khai thác thêm về số phận cá nhân của những con người nhỏ bé không một ai có thể nhớ mặt đặt tên ở trong xã hội, tập trung vào những vấn đề về đạo đức, nhân sinh. Từ đó mang đến cho độc giả những bài học chiêm nghiệm đầy sự sâu sắc trong cuộc đời, về những mặt trái, và cả những nỗi đau âm thầm do dấu vết của hai cuộc chiến tranh đã để lại cho đất nước.

Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những tác phẩm có thể nói là xuất sắc nhất của nhà văn Nguyễn Minh Châu khi đã mở ra được một cánh cửa mới, một nhận thức đầy mới lạ về sự gắn bó vô cùng mật thiết giữa cuộc đời với nghệ thuật, cũng như bộc lộ được rõ số phận, vẻ đẹp nhân cách trong con người và cả những trăn trở về cuộc sống của hàng triệu con người nhỏ bé, những con người lầm than giữa sự chuyển đổi của đất nước.

Mở bài gián tiếp 5

Nhà văn Nguyễn Minh Châu sinh vào năm 1930, quê ở xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu thuộc tỉnh Nghệ An. Ông đã tham gia bộ đội vào năm 1950, chiến đấu tại vùng địch hậu thuộc đồng bằng Bắc Bộ rồi lại đi vào chiến trường Quảng Trị và Thừa Thiên. Nguyễn Minh Châu là một nhà văn hết sức tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam vào thời kỳ chống Mỹ, đồng thời cũng chính là người mở đường rất xuất sắc cho công cuộc đổi mới nền văn học từ sau năm 1975. Ở giai đoạn trước, ông là cây bút với khuynh hướng lãng mạn, sử thi. Ở thời kỳ sau, ngòi bút của ông lại chuyển qua đề tài thế sự, quan tâm nhiều hơn tới đời sống của con người ở trong đời thường với những vấn đề liên quan đến đạo đức và về triết lý nhân sinh. Tập truyện ngắn Những vùng trời khác nhau (ra đời năm 1970), tiểu thuyết Dấu chân người lính (ra đời năm 1972) với hình tượng trung tâm chính là những người lính đang chiến đấu để chống quân xâm lược Mỹ, giải phóng được miền Nam và thống nhất đất nước đã khẳng định thêm tài năng và tên tuổi Nguyễn Minh Châu trong nền văn học hiện đại. Ông cũng là một nhà văn tiên phong trong công cuộc đổi mới nền văn học với mối quan tâm vô cùng đặc biệt với phẩm giá, đạo đức và quan niệm sống của 1 con người trong đời thường. Điều ấy được thể hiện thông qua những tác phẩm như tiểu thuyết Miền cháy (năm 1977), Lửa từ những ngôi nhà (năm 1977) và những truyện ngắn khác như Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Khách ở quê ra và Bức tranh. Năm 2000, Nguyễn Minh Châu đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về lĩnh vực văn học và nghệ thuật.

Chiếc thuyền ngoài xa được sáng tác vào năm 1983 là một truyện ngắn vô cùng xuất sắc của ông vào thời kỳ sau; nội dung kể về chuyến đi công tác của một nghệ sĩ nhiếp ảnh, thông qua đó thể hiện được cách nhìn của tác giả về hiện thực của cuộc sống, một cái nhìn vô cùng thấu hiểu và thấm đẫm tình thương cùng với sự băn khoăn và day dứt về thân phận của con người. Tác giả cũng đã gửi gắm vào trong truyện ngắn này những chiêm nghiệm vô cùng sâu sắc của mình về nghệ thuật.

Mở bài Chiếc thuyền ngoài xa trực tiếp 

Mở bài trực tiếp 1 

Nguyễn Minh Châu (sinh năm 1930, mất năm 1989) sinh ra ở miền quê tỉnh Nghệ An. Bắt đầu viết văn vào năm 1960, Nguyễn Minh Châu đã để lại những đóng góp đáng kể trong văn học kháng chiến chống giặc Mỹ. Sau năm 1975, đặc biệt là từ năm 1980 của thế kỉ XX, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Khải được biết đến là hai cây bút tiên phong trong phong trào đổi mới nền văn học. Trước năm 1975, những sáng tác trong giai đoạn này mang cảm hứng sử thi cùng với giọng điệu ngợi ca vô cùng trang trọng. Nhân vật trung tâm chính là những người anh hùng và là những người lính. Ngôn ngữ trong từng trang viết của Nguyễn Minh Châu mang đậm nét trữ tình, lãng mạn. Từ sau năm 1975, từ cảm hứng sử thi, Nguyễn Minh Châu đã chuyển dần sang cảm hứng triết luận về những giá trị trong nhân bản đời thường. Nhân vật trung tâm chính là những con người mưu sinh trong hành trình khó nhọc kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện được nhân cách. Ngôn ngữ trong những trang viết của tác giả Nguyễn Minh Châu trở lại với đời thường, giàu chất chính luận, triết luận.

Nguyễn Minh Châu viết tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa vào năm 1983, được in lần đầu trong tập Bến quê. Sau được in riêng ra tập Chiếc thuyền ngoài xa vào năm 1988. Tác phẩm tiêu biểu với hướng tiếp cận đời sống của góc độ đời tư – thế sự của nhà văn vào giai đoạn sáng tác sau năm 1975.

Mở bài trực tiếp 2

Nguyễn Minh Châu sinh năm 1930, tại Quỳnh Lưu thuộc tỉnh Nghệ An, một miền quê với truyền thống hiếu học lâu đời. Ông là một nhà văn vô cùng trách nhiệm với cuộc sống, luôn khát khao được tìm thấy những hạt ngọc ẩn giấu bên trong từng con người. Những tác phẩm của ông thường thể hiện sự nhẹ nhàng mà thấm đẫm những triết lý vô cùng sâu sắc, đó cũng chính là nét nổi bật tạo nên phong cách văn học của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một tác phẩm rất thành công và gây được nhiều ấn tượng trong lòng độc giả của ông.

Tác phẩm được sáng tác vào năm 1983, đó là khoảng thời gian sau những ngày tháng dân tộc được thống nhất, cuộc kháng chiến chống Mỹ giành thắng lợi vẻ vang. Hai miền Nam Bắc sum vầy, cả nước đã đoàn kết với nhau đứng lên dựng xây một đời mới để có được cuộc sống tốt đẹp hơn. Song, đây cũng chính là thời điểm mà những hậu quả của chiến tranh để lại và còn ảnh hưởng rất lớn, bao nhiêu thách thức được đặt ra trong đời sống của nhân dân, đặc biệt là về cái nghèo và cái đói.

Mở bài trực tiếp 3

Nguyễn Minh Châu là một trong những cây bút được đánh giá là xuất sắc nhất của nền văn xuôi Việt nam hiện đại. Ông là người đã mở đường tinh anh và tạo được thành công vang dội trong nền văn học thời kì đổi mới. Mang một ước nguyện sẽ khám phá được con người ở bên trong con người, ông đã mang tới cái nhìn đa chiều cùng các sự việc và con người ở trong cuộc sống vào trong tác phẩm của mình. “Chiếc thuyền ngoài xa” cùng nhân vật người đàn bà hàng chài trong tác phẩm truyện ngắn là một ví dụ vô cùng tiêu biểu trong phong cách này của ông. Nhân vật người đàn bà hàng chài đã được tác giả khắc hoạ và khám phá bằng những cái nhìn đa chiều, từ những điểm khác nhau. Có khi được thể hiện từ sự quan sát và cảm nhận của nhân vật Phùng – người nghệ sĩ nhiếp ảnh cùng với tâm hồn vô cùng nhạy cảm, phong phú, có đôi lúc chị tự bộc lộ mình thông qua những lời nói và hành động trong mối quan hệ với những người xung quanh. Khi khám phá về tính cách của người đàn bà hàng chài, ấn tượng đầu tiên của Nguyễn Minh Châu muốn đem tới cho người đọc chính là vẻ ngoài vừa xấu xí, lam lũ cùng với vẻ cam chịu đến nhẫn nhục của người đàn bà hàng chài ấy ẩn dấu nhiều vẻ đẹp nhân tâm của người phụ nữ Việt Nam hiện đại.

Mở bài trực tiếp 4

Nguyễn Minh Châu là một trong các cây văn viết văn xuôi chứa đầy chất thơ và dằm sâu vào chất triết lý. Trong đó, “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong số sáng tác mang đậm chất nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu mà thông qua đó ông còn thể hiện được rất nhiều triết lý và ý nghĩa thông qua những hình ảnh nhỏ. Nghệ thuật chân chính luôn cần phải gắn bó với cuộc đời. Người nghệ sĩ không thể nào nhìn đời một cách hời hợt và giản đơn mà cần phải nhìn nhận thật kỹ cuộc sống và con người bằng những cái nhìn tỉnh táo và sáng suốt của lý trí kết hợp với sự rung động chân thành trong trái tim nhân ái. Tác giả đã thể hiện được phẩm chất tốt đẹp của những con người lao động trong công cuộc mưu sinh nhọc nhằn cùng với hành trình tìm kiếm hạnh phúc. Những “hạt ngọc tâm hồn” không hiện lên trong lửa đạn chiến tranh, mà còn lẩn khuất vào giữa đời thường đầy sóng gió.

Mở bài trực tiếp 5

Nguyễn Minh Châu (sinh năm 1930, mất năm 1989) là một nhà văn của quân đội. Ông là một trong số cây bút tiên phong của nền văn chương Việt Nam giai đoạn đổi mới (vào cuối thế kỉ XX). Những tập truyện ngắn như: “Người đàn bà trên chuyến tốc hành”, “Chiếc thuyền ngoài xa”, “Bến quê”, “Cỏ lau”,… đã thể hiện được tài năng nghệ thuật vô cùng đặc sắc, in đậm vào phong cách tự sự – triết lí của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Nguyễn Minh Châu luôn sử dụng ngòi bút của mình nhằm “đi tìm hạt ngọc ẩn sâu” trong tâm hồn của con người. Điều ấy đã được thể hiện rất rõ thông qua tác phẩm truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”. Thông qua thiên truyện ngắn về cuộc sống của một gia đình hàng chài vùng ven biển quanh năm đã gắn bó với chiếc thuyền ngoài khơi xa, tác giả đã thể hiện được những ý niệm trong triết lý sâu sắc về quan điểm trong nghệ thuật và quan niệm trong cuộc đời, con người.

Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được tác giả sáng tác vào năm 1983, xuất bản vào năm 1987. Nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng rồi tới chánh án Đẩu, người đàn bà thuyền chài với khuôn mặt rỗ cùng thằng bé Phác chính là những nhân vật đã được tác giả khắc hoạ vô cùng sắc sảo, để lại cho người đọc biết bao ấn tượng, biết bao ám ảnh về màu sắc lãng mạn trong nghệ thuật và sự thật trần trụi ngoài đời thường.

Mở bài Chiếc thuyền ngoài xa nâng cao 

Mở bài nâng cao 1: Phân tích người đàn bà làng chài

Nguyễn Minh Châu là nhà văn vô cùng tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam thời kỳ chống Mỹ, cũng chính là “người mở đường tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc) trong công cuộc đổi mới nền văn học từ sau năm 1975. Nhà nghiên cứu hàng đầu nước Nga Nikulin đã nhận xét: “Các nhân vật của Nguyễn Minh Châu trước 1980 được Nguyễn Minh Châu tắm rửa sạch sẽ, được bao bọc trong bầu không khí vô trùng”. Ta có thể nhận thấy điều đó thông qua nhân vật Nguyệt ở trong tác phẩm “Trăng sáng”. Giai đoạn sau này, nổi bật chính là truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” mang đến nhiều cảm hứng thế sự cùng với nhiều triết lý nhân sinh hơn. Nhưng quan điểm trong sáng tác của ông chính là “gắng đi tìm các hạt ngọc còn ẩn giấu trong bề rộng tâm hồn con người” thì không bao giờ thay đổi. Nhân vật trung tâm của tình huống truyện nghịch lý ấy trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” chính là nhân vật người đàn bà hàng chài. Từ nhân vật đó, nhà văn đã bộc lộ được tấm lòng nhân đạo và gửi gắm vào những thông điệp về nghệ thuật và cả cuộc đời. 

Mở bài nâng cao 2: Phân tích người đàn bà làng chài

Nhà văn Nam Cao đã từng khẳng định “nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”. Người nghệ sĩ cần phải sử dụng đôi mắt đa diện, thấu hiểu để có thể nhìn nhận được những vẻ đẹp về đạo đức và nhân văn, không nên chạy theo vẻ đẹp dù cho có hào nhoáng mà trống rỗng và vô hồn. Với quan niệm đó, nhà văn Nguyễn Minh Châu trong những sáng tác của mình đã làm rõ được khởi nguồn của nghệ thuật, thông qua những số phận đau khổ và bất hạnh của nhân vật. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa chính là thước phim vô cùng quý giá được nhà văn sáng tác vào ngay sau khi kháng chiến chống Mỹ giành được thắng lợi. Tác phẩm không những khắc họa chân thực hình ảnh cuộc sống thời hậu chiến mà còn bộc lộ ra những trăn trở, xót xa trước góc khuất của những con người lao động. Thông qua đoạn trích, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện được nỗi cảm thông sâu sắc với số phận hết sức bất hạnh của người đàn bà hàng chài.

Mở bài nâng cao 3: Phân tích người đàn bà làng chài

Nguyễn Minh Châu là một trong những tác giả nổi tiếng nhất trong nền văn học Việt Nam hiện đại, là người đã mở đường cho nền văn học nước ta giai đoạn đổi mới bằng một loạt những sáng tác vô cùng ấn tượng vào những năm 80 – 90. Bước ra từ cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mỹ vĩ đại của dân tộc, Nguyễn Minh Châu không viết nhiều về những cuộc chiến hay lấy sự vất vả, khó khăn của chiến trường làm đề tài chính cho tác phẩm của mình, thay vào đấy ông bắt đầu chú ý hơn đến những con người sau cuộc chiến, số phận của những người đó thời hậu chiến. Nhà văn đã tập trung vào những đề tài về đạo đức, đi sâu vào những cái đẹp còn đang lẩn khuất ở trong tâm hồn của những số phận nhỏ bé nhất và cả với những nỗi đau mà họ phải gánh chịu, từ ấy đem đến cho độc giả những góc nhìn cùng những triết lý mới mẻ vô cùng sâu sắc của cuộc đời. Chiếc thuyền ngoài xa là một số tác phẩm đạt được thành công và gây nên tiếng vang lớn cho văn đàn Việt Nam của nhà văn Nguyễn Minh Châu, trong đó nổi bật lên bởi hình ảnh của người đàn bà hàng chài vất vả, lam lũ, tuy xấu xí nhưng lại đem đến những vẻ đẹp vô cùng tiềm ẩn và đáng quý.

Mở bài nâng cao 4: Phân tích người đàn bà làng chài

Ai đó đã từng nói rằng “ Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Phải chăng vì thế mà ta đã bắt gặp nhiều nghệ sĩ với phong cách hoàn toàn khác nhau trên cùng một giao lộ của hành trình đi kiếm tìm và khám phá ra vẻ đẹp của tâm hồn con người. Kim Lân có truyện ngắn “Vợ nhặt” và Nguyễn Minh Châu có tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trường hợp như thế. Nếu như khả năng viết rất hay về chủ đề nông thôn và cuộc sống của người dân vùng quê, Kim Lân đã xây dựng được thành công nhân vật người vợ nhặt thông qua tình huống truyện vô cùng độc đáo thì với phong cách truyện đậm chất tự sự và triết lí, Nguyễn Minh Châu đã khai phá ra được những nghịch lý xuất hiện trong cuộc sống của người đàn bà hàng chài. Qua các tác phẩm như trên, tác giả đều muốn cho ta thấy được vẻ đẹp ẩn sâu của người phụ nữ Việt Nam khi phải đối mặt với hoàn cảnh khó khăn.

Mở bài nâng cao 5: Phân tích người đàn bà làng chài

Vẻ đẹp trong cuộc sống, của mỗi con người đều cần phải được nhìn nhận và được đánh giá ở trong một mối quan hệ vừa phức tạp lại đa chiều. Và cái đẹp, cái mà mỗi con người chúng ta đều mong muốn hướng đến để hoàn thiện nhân cách của chính mình đôi lúc lại tiềm ẩn vào trong cái vẻ xù xì và gai góc mà không phải ai hay lúc nào cũng có thể nhận thấy được. Đó chính là một vấn đề có ý nghĩa cơ bản được thể hiện thông qua Chiếc thuyền ngoài xa – một tác phẩm vô cùng tiêu biểu cho sáng tác của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong giai đoạn đổi mới. Vẻ đẹp của tác phẩm đã được toát lên từ rất nhiều yếu tố trong ấy có nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc biệt chính là nhân vật người đàn bà hàng chài – một nhân vật để lại vô vàn ấn tượng trong lòng của người đọc.

Mở bài Chiếc thuyền ngoài xa ngắn gọn

Mở bài ngắn gọn 1

Nguyễn Minh Châu là  người  đã mở đường tinh anh và tài năng của nền văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Những tác phẩm của ông đã  để lại dấu ấn rất sâu sắc với người đọc: “Mảnh trăng cuối rừng”, “Bức tranh” và đặc biệt là tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” đã viết vào những năm đầu thời kì đổi mới. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” đã thể hiện một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn rất đa dạng nhiều chiều và  phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. Đồng thời tác phẩm đã in đậm với phong cách tự sự triết lí của Nguyễn Minh Châu: với cách đã  khắc họa nhân vật và đã xây dựng được cốt truyện độc đáo và sáng tạo.

Mở bài ngắn gọn 2

Nguyễn Minh Châu là một trong những cây bút  rất tiên phong của nền  văn học Việt Nam.  Thời kỳ đổi mới với lối viết  rất lãng mạn những vẫn chân thực và giàu cảm xúc. Khi chiêm nghiệm về cuộc đời và nghệ thuật thì ông đã viết lên được truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa với hai bức tranh đã đối lập nhau giữa cái đẹp toàn bích của nghệ thuật và sự thật đau đớn phũ phàng của đời thực. Câu chuyện đã kể lại một chuyến đi thực tế của người nghệ sĩ nhiếp ảnh, nếu như đã phát hiện mới mẻ của anh về vẻ đẹp thì nghệ thuật của thiên nhiên thì khiến người ta rung động thì sự phát hiện về sự thật trần trụi và đắng cay của con người đằng sau với vẻ đẹp ấy lại bị  bóp nghẹt bao trái tim của người đọc.

Mở bài ngắn gọn 3

Bước qua khói lửa chiến tranh và những tưởng con người sẽ được sống một cuộc sống hạnh phúc và  yên bình. Thế nhưng, trong cuộc sống của thời hậu chiến thì  những con người nhỏ bé rất đáng thương nhưng vẫn phải “vật lộn” với những lo toan để mưu sinh, để rồi bao bi kịch và nghịch lý nảy sinh từ đói nghèo. Hiện thực cuộc sống với tất cả những phức tạp và  đa diện ấy đã được Nguyễn Minh Châu phát hiện và đã thể hiện  được  đầy tinh tế trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”. Truyện ngắn không chỉ đã  thể hiện sự trăn trở và  xót xa trước những nghịch cảnh với góc khuất của cuộc đời mà còn đặt ra với trách nhiệm của nghệ thuật cũng như điểm nhìn và tư tưởng của người nghệ sĩ: Nghệ thuật cần hướng đến cuộc đời và hướng đến người nghệ sĩ cần gắn bó để đồng cảm với những nỗi đau của con người.

Mở bài ngắn gọn 4

Trong nền văn học cách mạng trước năm 1975 với  thước đo giá trị chủ yếu của nhân cách là sự cống hiến và  hy sinh cho cách mạng và  là các tiêu chuẩn đạo đức cách mạng  đã được thể hiện chủ yếu trong mối quan hệ với đồng chí, đồng bào với kẻ thù. Sau năm 1975 thì văn chương đã trở về với đời thường và Nguyễn Minh Châu là một trong  những số  nhà văn đầu tiên của thời kỳ đổi mới đã đi sâu khám phá đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Khi  đã làm cho người đọc ý thức về sự thật thì có khả năng nhìn thẳng vào sự thật,  phát hiện nhiều mối quan hệ xã hội phức tạp và  chằng chịt, thì văn chương cũng  đã ít nhiều với đáp ứng được nhu cầu nhìn nhận và hoàn thiện nhiều mặt của nhân cách con người. Truyện Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là  đã phát hiện về đời sống và con người để theo hướng đó.

Mở bài ngắn gọn 5

Một người nào đó đã từng nhận xét rằng: Suy cho cùng thì ý nghĩa thực sự của nền văn học là đã góp phần nhân đạo hóa con người. Tác phẩm  của văn học là một sản phẩm của tinh thần của con người và  do đó con người làm ra để đáp ứng được nhu cầu của nó. Vì vậy một tác phẩm của nền  văn học thực sự có giá trị khi nó nên tiếng vì con người và ca ngợi bảo vệ con người. Với ý nghĩa đó thì Nguyễn Minh Châu đã cho người đọc thấy được những giá trị rất sâu sắc mà ông đã thổi vào trong Chiếc thuyền ngoài xa để nói nên hình ảnh của  con người và cuộc sống.

Mở bài sưu tập khác

Mở bài chiếc thuyền ngoài xa cập nhật mới

Story pin image

Story pin image

Story pin image

Story pin image

Qua bài viết này, Onthidgnl đã giúp các em có cách viết mở bài tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa hay nhất. Hy vọng rằng thông tin này sẽ giúp các em có thêm cảm hứng để viết một bài phân tích tác phẩm toàn diện và sâu sắc.

Filed Under: Ngữ Văn; Tagged With: chiếc thuyền ngoài xa

Mở bài những đứa con trong gia đình mới cập nhật

Tác giả Tùng Teng posted 12/03/2024

Dưới đây, Onthidgnl sẽ giới thiệu cho các bạn học sinh một số cách mở bài Những đứa con trong gia đình của nhà văn Nguyễn Thi trong bài làm văn phân tích tác phẩm một cách xuất sắc nhất nhé. Điều này sẽ giúp bạn có thêm gợi ý về cách thu hút người đọc vào nội dung chính của bài viết. Hãy cùng tham khảo nhé!

Mở bài những đứa con trong gia đình

Mẫu mở bài gián tiếp Những đứa con trong gia đình

Mở bài gián tiếp 1

Giai đoạn văn học trong những năm từ 1945 đến 1975 đã ghi dấu không biết bao nhiêu những vẻ đẹp mang khuynh hướng sử thi cùng với cảm hứng lãng mạn đặc biệt là vẻ đẹp anh dũng của những con người Việt Nam trong giai đoạn chống Mỹ. Đó chính là lòng yêu nước vô bờ bến và lòng căm thù giặc sâu sắc nên luôn có ý chí và quyết tâm kiên cường phải đánh thắng giặc. Nếu Nguyễn Trung Thành luôn muốn tìm kiếm những con người có khí chất phi thường, cái hào hùng cao siêu, những sự tích nổi tiếng vang dội để xây dựng vẻ đẹp của trang văn, thì Nguyễn Thi lại được mệnh danh là nhà văn của những người dân Nam Bộ. Ông luôn muốn khai thác những thứ hào hùng lớn lao đan xen với cái mộc mạc, giản dị mà vô cùng gần gũi hàng ngày, qua đó ta mới nhận ra được cái vĩ đại tồn tại trong cái đời thường, cái lớn lao tồn tại trong cái giản dị của người dân Nam Bộ. Điển hình là tác phẩm truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” được viết vào năm 1966, đó là những tháng ngày chiến đấu vô cùng khốc liệt của cuộc chiến tranh chống giặc Mỹ.

Mở bài gián tiếp 2

Hòa vào bầu không khí hào hùng trong thời đại, văn học Việt Nam ở giai đoạn kháng chiến chống giặc Mỹ đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh cao cả, không chỉ để tái hiện lại không khí đấu tranh khốc liệt qua cảm hứng sử thi, chủ nghĩa anh hùng cách mạng hay ca ngợi lên những con người Việt Nam can đảm, bất khuất mà còn khơi dậy lên lòng yêu nước cùng ý thức trách nhiệm với mỗi người khi nhắc đến vận mệnh của đất nước. “Những đứa con trong gia đình” của tác giả Nguyễn Thi là một trong những tác phẩm đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh thiêng liêng ấy, thông qua câu chuyện kể về một gia đình của người dân Nam Bộ, Nguyễn Thi cũng mở ra câu chuyện của cả đất nước, thông qua lòng yêu nước, sự trưởng thành của hai nhân vật chính là Chiến và Việt, Nguyễn Thi đã thể hiện từng bước trưởng thành trong công cuộc cách mạng miền Nam cũng như cuộc chiến đấu sống còn với thực dân Mỹ.

Mở bài gián tiếp 3

Nguyễn Thi không chỉ được biết đến là một nhà văn biết cầm bút mà ông còn được biết đến với vai trò là một chiến sĩ anh dũng dám cầm súng đánh giặc. Trong giai đoạn kháng chiến chống giặc Mỹ, ông đã từng có khoảng thời gian sinh sống và chiến đấu tại chiến trường phía Nam nên ông luôn mang trong mình thứ tình cảm đặc biệt với vùng đất cũng như con người nơi đây. Vùng “đất nhớ” Nam Bộ chính là chất liệu, là nguồn cảm hứng vô cùng đặc biệt cho những tác phẩm văn chương của ông, vì thế mà Nguyễn Thi được người đời ngợi ca là “Nhà văn của người dân Nam Bộ”. Một trong những tác phẩm có thể nói là nổi tiếng nhất làm nên tên tuổi của ông đó là tác phẩm truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” kể về một mảnh đất Nam Bộ anh dũng cùng những con người với lòng yêu nước sâu sắc, giàu tình yêu thương mà vẫn giữ được vẻ kiên cường, dũng cảm. Truyện viết về truyền thống yêu nước sâu sắc của một gia đình nông dân, từ đó nhà văn muốn mở rộng và nâng tầm lên thành truyền thống yêu nước cũng như tinh thần đoàn kết của toàn dân tộc, đất nước Việt Nam.

Mở bài gián tiếp 4

Truyền thống gia đình kết hợp với truyền thống dân tộc luôn mang những giá trị đẹp đẽ, ý nghĩa sẽ được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Truyền thống gia đình sóp phần làm nên truyền thống dân tộc to lớn. Điều ấy càng có ý nghĩa nhất là ở giai đoạn cách mạng kháng chiến chống lại giặc ngoại xâm. Chúng ta đều biết lịch sử dân tộc đã phải trải qua cuộc chiến đấu khốc liệt chống đế quốc Mỹ. Trong những năm tháng chỉ có mưa bom bão đạn với biết bao nhiêu đau khổ, hy sinh và mất mát tưởng chừng như không thể nào vượt qua nổi. Vậy điều gì đã làm nên sức mạnh vô cùng vĩ đại giúp nhân dân ta vượt qua được? Với “Những đứa con trong gia đình”, Nguyễn Thi đã có thể lý giải cho cội nguồn của sức mạnh ấy. Những con người tham gia kháng chiến được thừa kế tất cả sức mạnh từ gia đình – cội nguồn sâu thẳm trong từng người lính. Với việc khắc họa lên hình ảnh hai nhân vật chị em Chiến – Việt, ta cũng có thể thấy được vẻ đẹp anh dũng mang khuynh hướng sử thi cùng với cảm hứng lãng mạn trong văn học ở giai đoạn 1945 – 1975. Vẻ đẹp ấy nằm ngay trong những điều mộc mạc, giản dị và hết sức đời thường.

Mở bài Những đứa con trong gia đình trực tiếp 

Mở bài  trực tiếp 1 

“Những đứa con trong gia đình” là một truyện ngắn vô cùng xuất sắc của nhà văn Nguyễn Thi được viết trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước. Truyện ngắn đã cho người đọc nhìn nhận được những phẩm chất rất cao đẹp trong con người hoạt động cách mạng nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung. Giữa mưa bom bão đạn thì họ là những người anh hùng, là những bông hoa kiên cường và luôn toả sáng, ngát hương. Bên cạnh những thành công về mảng nội dung, truyện ngắn còn mang tới cho chúng ta những cảm xúc vừa mộc mạc, gần gũi mà lại giản dị, ấm áp vô cùng, đó là tình yêu nước thiêng liêng, là một màu sắc của vùng Nam Bộ thấm đẫm trong mỗi trang văn.

Ta vẫn còn nhớ đâu đó hình bóng của những chiến sĩ Tây Tiến hết sức anh dũng, bất khuất, những người con miền đất Tây Nguyên kiên cường như những cây xà nu thì ở những đứa con trong gia đình, ta lại có thể cảm nhận được những vẻ đẹp vô cùng cao quý ấy hội tụ ở trong phẩm chất tốt đẹp của những người con vùng Nam Bộ giàu tình yêu nước. Ở họ, luôn rạng ngời ý chí của những con người hoạt động cách mạng đó chính là sự gan dạ, kiên cường và một lòng thủy chung với cách mạng và luôn cảm thấy tự hào về những truyền thống tốt đẹp của gia đình.

Mở bài trực tiếp 2

“Chuyện gia đình ta cũng dài như sông…Rồi trăm con sông của gia đình lại đổ về một biển, mà biển thì rộng lắm,…rộng bằng cả nước ta và ngoài nước ta“. Đó chính là câu nói của nhân vật chú Năm – một nhân vật xuất hiện trong truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi đã thể hiện được đầy đủ tinh thần và giá trị của truyện ngắn ấy. Truyện viết về nhân vật Chiến và Việt – là những đứa con trong một gia đình với truyền thống yêu nước vô cùng sâu sắc, Nguyễn Thi không chỉ hướng tới việc xây dựng hình tượng nhân vật nghệ thuật đơn thuần mà thông qua đó còn làm sống dậy cả không khí dữ dội, hào hùng của cuộc kháng chiến chống giặc Mĩ, từ truyền thống của gia đình nhà văn đã mở ra trước mắt cho người đọc về những truyền thống tốt đẹp của cả đất nước và từ tình yêu thương vô cùng gắn bó và tinh thần đấu tranh thực sự anh dũng của chị em Chiến và Việt, tác giả đã mang tới một cái nhìn rất chân thực về tinh thần đoàn kết cùng với ý thức đấu tranh mãnh liệt của dân nhân miền Nam nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung khi cuộc chiến giành độc lập còn đầy gian khổ.

Mở bài trực tiếp 3

Nguyễn Thi là một trong những nhà văn tài năng hàng đầu của nền văn nghệ giải phóng miền Nam trong giai đoạn kháng chiến chống giặc Mỹ. Tác phẩm của ông chính là biểu tượng cho chủ đề những con người bản địa, với sự bộc trực cùng tinh thần yêu nước, yêu cách mạng sâu sắc, sẵn sàng hi sinh vì quê hương và đấu tranh giành lại độc lập tự do của đất nước. “Những đứa con trong gia đình” là một trong những tác phẩm vô cùng xuất sắc của ông được viết vào những ngày tháng đấu tranh khốc liệt chống lại giặc Mỹ khi ông còn đang làm việc tại tạp chí văn nghệ quân giải phóng (vào tháng 2 năm 1966). Truyện ngắn này mang phong cách kể chuyện vô cùng độc đáo, được kể dưới ngôi thứ ba, người kể giấu tên. Truyện được kể dưới góc độ của nhân vật Việt ở hoàn cảnh vừa bị trọng thương và vừa bị lạc đồng đội và bị bỏ lại giữa cánh rừng mênh mông. Cách kể chuyện ấy khiến cho câu chuyện thêm phần đậm đà, tràn đầy tình cảm, cho phép tác giả có thể xâm nhập sâu thêm vào câu chuyện. Điều đặc biệt trong lối kể chuyện chính là diễn biến của truyện không hề bị phụ thuộc vào trình tự thời gian lẫn không gian. Câu chuyện linh hoạt biến đổi từ hiện thực chiến trường đến quá khứ, và từ sự việc này đến sự việc khác. Những kỷ niệm trong những ngày cùng chú Năm bắt ếch về để nhậu, những ngày lấy ná để bắn chim, và những kỷ niệm luôn khắc ghi với má, tất cả đều được Việt ghi nhớ. Qua từng kỷ niệm ấy, các nhân vật đã được phác họa vô cùng rõ nét với tính cách cùng vẻ đẹp riêng của họ

Mở bài trực tiếp 4

Gia đình là một trong những chủ đề quen thuộc với văn học Việt Nam, là nguồn cảm hứng sáng tác vô hạn của rất nhiều các nhà văn, nhà thơ. Nhắc đến tác phẩm viết về chủ đề này chúng ta không thể không nhắc tới truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” của tác giả Nguyễn Thi. Ra đời ở giai đoạn khốc liệt nhất trong cuộc kháng chiến chống giặc Mỹ của nhân dân ta, tác phẩm chính là câu chuyện kể về những người con đã trưởng thành trong một gia đình có truyền thống cách mạng, mang theo mình những vẻ đẹp truyền thống được kế thừa từ những thế hệ trước. “Những đứa con trong gia đình” là thiên truyện có kết cấu truyện ngắn rất hiện đại được kể lại theo mạch hồi ức của người chiến sĩ trẻ tuổi tên Việt. Đó là dòng hồi tưởng khi anh chiến sĩ ấy bị thương nặng, dòng hồi tưởng đã đan xen giữa quá khứ với hiện đại, là sự nối kết giữa tình cảm gia đình – quê hương cùng với cách mạng. Sự đan xen của những câu chuyện đó được kể không theo bất cứ trình tự thời gian nào nhưng vẫn vô cùng thống nhất và được sắp xếp hết sức hợp lý, tạo liên tưởng đa chiều.

Mở bài trực tiếp 5

Nguyễn Thi là một nhà văn với phong cách sáng tác gắn liền với đời sống của nhân dân miền Nam, một nhà văn có tầm nhìn sâu và rất tài năng. Ông thực sự xứng đáng với danh hiệu mọi người trao tặng “Nhà văn của người dân Nam Bộ”. Và một tác phẩm tiêu biểu nhất của ông không thể không nhắc đến truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình”. Truyện kể về một gia đình người nông dân Nam Bộ, những người đã từng sống và chịu đựng trong một giai đoạn đầy khó khăn và gian khổ. Những đứa con trong gia đình ấy cũng được nuôi dạy cùng truyền thống yêu nước, căm thù giặc và mang theo khao khát chiến đấu, son sắt cho cách mạng. Từng ngày, họ phải đối mặt với những thử thách vô cùng khắc nghiệt, nhưng không bao giờ họ từ bỏ khát vọng muốn đất nước độc lập, tự do và sự công bằng. Nguyễn Thi đã tạo nên một tác phẩm rất cảm hứng và lại nhân văn, với một cách kể chuyện hết sức độc đáo và tinh tế. Trong truyện, ông đã thành công trong việc xây dựng những nhân vật rất sâu sắc, với tính cách vô cùng đa dạng và phức tạp, cùng những tình huống kịch tính cũng khó quên. Bằng cách tương tác giữa các nhân vật với nhau, ông đã mô tả ra một thế giới vô cùng phức tạp, đầy những xung đột, nhưng vẫn đầy hy vọng và tình yêu nước mãnh liệt. Điều đặc biệt nhất của tác phẩm này chính là cách kể chuyện rất tài ba. Nguyễn Thi đã sử dụng ngôn ngữ trang nhã và tinh tế để có thể thể hiện được đầy đủ nhất tình cảm cùng ý nghĩa của từng chi tiết. Từ cách viết, câu chữ, đến cách diễn đạt, mọi thứ đều được đưa vào bằng một cảm nhận hết sức sâu sắc về cuộc sống và con người. Truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” là một tác phẩm vừa mang ý nghĩa đặc sắc vừa cảm động. Đó là một lời kể về những nông dân miền Nam, với tất cả tình yêu thương hướng về quê hương đất nước.

Mở bài Những đứa con trong gia đình nâng cao 

Mở bài nâng cao 1

Những năm tháng trôi đi và lịch sử không ngừng biến động nhưng “Những đứa con trong gia đình” mãi là bông hoa không tuổi tựa mùa xuân không ngày tháng đã ghi lại quá khứ hào hùng, sôi động của đất nước mình một thuở. Vẻ đẹp con người Việt Nam đã làm nên cái hồn của cả dân tộc và góp phần làm cho tác phẩm còn sống mãi với thời gian. Văn học thời kì chống Mĩ cứu nước đã bắt được nhịp sống của dân tộc, đã ngợi ca sức sống và vẻ đẹp của con người Việt Nam. Giờ lật lại, chúng ta không khỏi tự hào, xúc động về những năm tháng đất nước nước mình đã đi qua, về vẻ đẹp muôn đời của người con đất Việt. Và ta mãi cất lên những bài ca không quên – bài ca viết về quê hương, viết về con người bởi tự hào biết mấy hai tiếng: Việt Nam.

Mở bài nâng cao 2

Nguyễn Thi là một trong những cây bút viết văn xuôi đứng đầu trong nền văn nghệ giải phóng miền Nam. Ông được mọi người gọi là nhà văn của những người dân Nam Bộ. Trong tất cả tác phẩm của mình, ông luôn dành mọi tâm huyết để xây dựng nhân vật thành những con người đáng nhớ và có cá tính trong văn học. Những đứa con trong gia đình là một truyện ngắn có thể nói là xuất sắc nhất của nhà văn Nguyễn Thi rút ra trong tập truyện và kí (năm 1978). Nhân vật chính trong tác phẩm là nhân vật Chiến và Việt. Đặc biệt ở đây chúng ta có thể tìm hiểu về những tính cách, phẩm chất của nhân vật Việt, một chiến sĩ cộng sản vô cùng anh dũng. Ngay từ bé đã mang tư chất của một người anh hùng nhưng cũng mang một phần trẻ con hồn nhiên đúng với lứa tuổi. Có thể nói rằng anh yêu nước như thế, căm thù giặc như thế nhưng trong cuộc sống bình thường thì Việt vẫn thể hiện được tính cách vô cùng hồn nhiên hợp với lứa tuổi của mình.

Mở bài nâng cao 3

Có một nhà văn đã từng nói tình yêu Tổ quốc sẽ được bắt nguồn từ tình yêu với gia đình. Đúng vậy, tình yêu của Tổ quốc lớn lao cao cả luôn được bắt đầu từ những thứ tình cảm nhỏ nhặt tưởng chừng như giản dị nhất. Trong công cuộc kháng chiến thì thứ tình cảm đó lại càng có ý nghĩa hơn hết. Và đôi lúc nó còn thể hiện được truyền thống không chỉ của dân tộc mà còn là truyền thống của gia đình được trao truyền và cần kế thừa. Nguyễn Thi với tư cách là một nhà văn của người dân Nam Bộ đã viết nên một tác phẩm xuất sắc “Những đứa con trong gia đình”. Qua tác phẩm ấy tác giả đã có một cách lý giải về cội nguồn của sức mạnh con người trong công cuộc kháng chiến. Đây là sự thừa hưởng từ gia đình. Mỗi con người chỉ xứng đáng với truyền thống gia đình của mình khi họ đại diện cho một khúc sông nằm trong một dòng sông truyền thống. Truyền thống gia đình đã góp phần tạo thành một truyền thống chung cho toàn dân tộc.

Mở bài nâng cao 4

Văn học giai đoạn 1945 – 1975, văn học nước nhà đã đánh dấu những vẻ đẹp của khuynh hướng sử thi cùng cảm hứng lãng mạn đặc biệt là về vẻ đẹp anh hùng của con người Việt Nam giai đoạn chống Mỹ. Đó là tinh thần yêu nước, căm thù lũ giặc vô cùng sâu sắc có ý chí và quyết tâm rất kiên cường, đánh giặc. Nếu Nguyễn Trung Thành luôn tìm kiếm những thứ hào hùng cao cả, những sự tích và những con người phi thường vào trong vẻ đẹp của trang văn, thì Nguyễn Thi lại là một nhà văn của người dân Nam Bộ. Ông luôn khai thác được cái hào hùng lớn lao hài hòa cùng với cái mộc mạc giản dị thường ngày, qua đó thấy được thứ vĩ đại trong cái đời thường, thứ lớn lao trong cái giản dị của người dân Nam Bộ. Điển hình nhất là đoạn trích “Những đứa con trong gia đình” được viết vào năm 1966 – những tháng năm chiến đấu vô cùng ác liệt của công cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Mở bài nâng cao 5 

Nguyễn Thi là cây bút rất nổi tiếng trong nền văn xuôi giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. Truyện của Nguyễn Thi đã phản ánh vô cùng sinh động về cuộc sống của những người dân Miền Nam dưới sự đàn áp vô cùng dã man của Mỹ và chính quyền của Sài Gòn; đồng thời cũng làm nổi bật lên được vẻ đẹp của những người dân Miền Nam trong công cuộc đấu tranh quyết liệt cùng với kẻ thù để giải phóng được Miền Nam, thống nhất được đất nước, giành độc lập và tự do về cho toàn dân tộc. Trong các sáng tác của mình, Nguyễn Thi đã đi sâu vào nhằm khai thác đề tài về chủ nghĩa yêu nước, cách mạng của nhân dân Nam Bộ. Đó là những tập thể vô cùng anh dũng được hình thành nên bởi mọi lứa tuổi. Trong đấy, tầng lớp thiếu niên đã góp một phần không hề nhỏ vào việc tạo nên bức tranh đầy hào hùng này như nhân vật Việt ở trong đoạn trích “Những đứa con trong gia đình” của ông.

Mở bài nâng cao 6

Trong nền văn học hiện đại Việt Nam, nếu ở giai đoạn trước các mạng tháng Tám các nghệ sĩ chủ yếu tập trung vào đề tài phản ánh, tố cáo hiện thực xã hội, và thương cảm cho số phận của người nông dân cùng khổ và trí thức nghèo, thì sau khi cách mạng tháng Tám thành công, đất nước bước sang một trang sử mới, tiến vào thời kỳ vừa chiến đấu bảo vệ vừa xây dựng kiến thiết đất nước thì đề tài sáng tác lại có sự thay đổi lớn. Họ sẽ tập trung vào làm rõ vẻ đẹp phẩm chất con người trong công cuộc đấu tranh chống Mỹ và chống Pháp, theo khuynh hướng sử thi, chủ nghĩa anh hùng cách mạng.  Nổi lên trong đề tài “chiến tranh cách mạng – lực lượng vũ trang” là một số tác giả nổi tiếng như Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Đình Thi, Tố Hữu, Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Khải,…

Và Nguyễn Thi cũng là một trong số đó, ông và nhà văn Nguyễn Trung Thành là hai người bạn thân, cùng tham gia chiến đấu và sau khi tập kết ra Bắc cả hai cùng tình nguyện vào Nam để than gia chiến đấu, cuối cùng lại chia tay nhau tại khu rừng xà nu phía Tây Thừa Thiên giáp Lào.

Nguyễn Trung Thành ở lại gắn bó với chiến trường ở mảnh đất Tây Nguyên đầy nắng gió và viết nên tác phẩm “Rừng xà nu” kể về cuộc chiến đấu anh dũng của những người anh hùng Tây Nguyên để làm sáng tỏ chân lý bất diệt: “Chúng nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo”, còn nhà văn Nguyễn Thi lại đi tiếp vào phía Nam gắn bó với con người và mảnh đất Nam Bộ và viết nên tác phẩm nổi tiếng “Những đứa con trong gia đình” lý giải sức mạnh làm nên chiến thắng vang dội chính là sức mạnh đến từ truyền thống yêu nước muôn thuở.

Mở bài nâng cao 7

Tình cảm gia đình là thứ tình cảm thiêng liêng và cao quý nhất. Bước vào văn chương, nó còn trở lên đẹp đẽ và cảm động vô cùng. Trong thiên truyện “Những người con trong gia đình”, Nguyễn Thi đã phác họa lên một dòng sông với tình cảm gia đình sâu sắc. Dòng sông truyền thống gia đình ấy luôn chảy trôi không ngừng từ thế hệ này sang thế hệ khác trong tác phẩm đã gợi cho người đọc nhiều xúc cảm và suy ngẫm.

“Những đứa con trong gia đình” là tác phẩm tiêu biểu nhất trong sự nghiệp văn học của Nguyễn Thi, được ông “thai nghén thành hình” từ những ngày chiến đấu chống Mỹ gian khổ và ác liệt vào năm 1966. Chính vì hoàn cảnh vô cùng đặc biệt đó, tình cảm gia đình bộc lộ qua thiên truyện này vô cùng cảm động. Nó như bức tranh sử thi hào hùng, hoành tráng về con người Nam Bộ trong chiến đấu nói riêng và toàn thể dân tộc Việt Nam nói chung trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.

Mở bài nâng cao 8

Một người nghệ sĩ có tài là một người nghệ sĩ biết tìm từ những chất liệu mà đã có nhiều người nhào nặn,  để nhào nặn thành một điều mới mẻ, nhào nặn thành một đứa con tinh thần đích thực của riêng mình. Nguyễn Thi chính là một người nghệ sĩ tài ba như vậy. Trong những năm tháng kháng chiến gian khổ, văn học cách mạng là nguồn đề tài để các nhà văn, nhà thơ khai thác triệt để. Mà khai thác liên tục chắc chắn sẽ đến lúc cạn kiệt. Đối với Nguyễn Thi ông đã tìm ra cách khai thác mới mẻ, độc đáo trong đề tài mà nhiều người đã lật mở, đào xới.

Không giống như những nhà văn khác, khi viết về đề tài chiến tranh họ khai thác ở nhiều góc độ khác nhau như vẻ đẹp thân phận con người, …còn với Nguyễn Thi, ông lại nhìn chiến tranh ở một góc độ rất khác  biệt – góc độ gia đình. Với cách khai thác này, nhà văn đã đem đến cho bạn đọc một cái nhìn mới mẻ hơn về chiến tranh, về số phận và phẩm chất tốt đẹp của con người.

Mở bài Những đứa con trong gia đình ngắn gọn

Mở bài ngắn gọn 1

Nguyễn Thi là nhà văn gắn bó sâu sắc với nhân dân miền Nam và thực sự xứng đáng với danh hiệu: Nhà văn của người dân Nam Bộ . Tác phẩm tiêu biểu của ông là Những đứa con trong gia đình. Truyện kể về những đứa con trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc và khao khát chiến đấu, son sắt với cách mạng.

Mở bài ngắn gọn 2

Những năm tháng chiến tranh đã lùi xa, song những vết thương chiến tranh vẫn còn đọng lại cùng năm tháng. Những ngày tháng chiến tranh ấy ta cũng có thể tìm thấy trong truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình”. Đặc biệt nhân vật chị Chiến được tác giả xây dựng để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc.

Mở bài ngắn gọn 3

Nguyễn Thi – một con người tài hoa, sáng tác trên nhiều thể loại thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết,… Ngòi bút của tập trung chủ yếu vào những người dân Nam Bộ yêu nước mãnh liệt, có lòng căm thù giặc sâu sắc và có tinh thần chiến đấu kiên cường. Những đứa con trong gia đình có thể coi là kết tinh phong cách nghệ thuật của ông. Tác phẩm hoàn thành vào tháng 2 năm 1966 – giai đoạn cuộc kháng chiến chống Mỹ đang rất căng thẳng, ác liệt.

Mở bài ngắn gọn 4

Với tác phẩm “Những đứa con trong gia đình”, Nguyễn Thi đã tăng thêm vị thế danh hiệu “nhà văn của người dân Nam Bộ”. Phong cách nhân vật của ông luôn là những người bộc trực, hồn nhiên, gan góc, sẵn sàng hi sinh vì sự nghiệp giải phóng. Hai nhân vật Việt và Chiến là minh chứng hùng hồn cho phong cách ấy.

Mở bài ngắn gọn 5

Nguyễn Thi là một trong những cây bút văn xuôi đứng đầu Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ông được mọi người biết đến và gọi với cái tên vô cùng gần gũi là “Nhà văn của người dân Nam Bộ”. Ông đã để lại vô vàn tác phẩm gắn bó với tên tuổi của ông. Trong những tác phẩm tiêu biểu ấy nổi lên với truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” (vào năm 1978). Truyện kể về những ngày chiến đấu đầy gian khổ và khó khăn của chiến trường miền Nam. Qua đây, người đọc có thể thấy được vẻ đẹp trong tâm hồn của những người dân Nam Bộ: tình cảm gia đình và tình yêu quê hương đất nước trong công cuộc kháng chiến chống giặc Mỹ ác liệt dưới ngòi bút vô cùng sắc sảo của nhà văn Nguyễn Thi.

Mở bài sưu tập khác

Story pin image
Story pin image

Story pin image

Sẽ liên tục update…

Qua bài viết này, Onthidgnl đã giúp các em có cách viết mở bài Những đứa con trong gia đình hay nhất. Hy vọng rằng thông tin này sẽ giúp các em có thêm cảm hứng để viết một bài phân tích tác phẩm toàn diện và sâu sắc nhé!

Filed Under: Ngữ Văn; Tagged With: những đứa con trong gia đình

15 Mở bài Rừng Xà Nu hay

Tác giả Tùng Teng posted 11/03/2024

Truyện ngắn Rừng Xà Nu của tác giả Nguyễn Trung Thành là một phần trong chương trình Ngữ Văn lớp 12. Để giúp các bạn hiểu cách bắt đầu phân tích tác phẩm Rừng Xà Nu, Onthidgnl gửi đến các bạn bài viết tổng hợp các mẫu mở bài rừng xà nu hay nhất; từ cơ bản đến nâng cao. Hãy cùng tham khảo nhé!

15 Mở bài Rừng Xà Nu hay

Mẫu mở bài gián tiếp Rừng xà nu

Mở bài gián tiếp 1

Bao thể hệ nhà thơ nhà văn đi qua để lại bao tác phẩm cống hiện cho nền văn học Việt Nam. Và sẽ rất thiếu sót khi quên nhắc tới nhà văn Nguyễn Trung Thành –  tác giả của tác phẩm Rừng Xà Nu xoay quanh con người và thiên nhiên vùng đất Tây Nguyên hùng vĩ. Bằng ngòi bút tài hoa và thấm đã tình yêu thương của mình nhà văn đã xây dựng hệ thống nhân vật vô cùng phong phú, đại diện cho lớp người Tây Nguyên kiên cường bất khuất cho tinh thần chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta.

Mở bài gián tiếp 2

Tây Nguyên từ lâu đã trở thành một nguồn cảm hứng bất tận cho người nghệ sĩ sáng tạo nghệ thuật. Họ nhận thấy nét đẹp của núi rừng không chỉ đến từ thiên nhiên mà hiện lên từ con người, vẻ đẹp tâm hồn của những kiếp người gắn bó với mảnh đất này. Và chắc hẳn khi đến với vùng đất ấy, người đọc không thể bỏ lỡ tác phẩm Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành viết về khung cảnh rừng xà nu ẩn mình sau nét đẹp tâm hồn của con người, tiêu biểu là hình tượng nhân vật Tnú mang cốt cách, nét đẹp của người anh hùng, luôn một lòng trung thành với ánh sáng của Đảng, Cách Mạng.

Mở bài gián tiếp 3

Mỗi khi nhắc đến Tây Nguyên giờ đây ta không còn chỉ nhớ đến những cánh chim chao liệng trên bầu trời, những điệu hát cồng chiêng say đắm lòng người mà còn nhớ đến cả nền văn học dành cho mảnh đất yêu dấu nơi đây. Một sức hút thần bí, nguồn cảm hứng sáng tác của không ít những hồn thơ, một trong số đó là Nguyễn Trung Thành. Ông mang đến tác phẩm Rừng Xà Nu chất chứa niềm tự hào về cảnh vật, núi rừng, con người gan góc oai hùng, sẵn sàng chiến đấu chống quân giặc Mỹ.

Mở bài gián tiếp 4

Đề tài thơ ca Cách Mạng là một đề tài đã trở thành nguồn cảm hứng của bao nhà thi ca, những cây bút thời kì kháng chiến. Một số tác phẩm tiêu biểu trong mảng đề tài văn xuôi viết về anh hùng cách mạng gọi tên truyện ngắn “Vợ nhặt” – Kim Lân hay “Vợ chồng A Phủ” – Tô Hoài với giá trị nhân đạo sâu sắc và còn rất nhiều tác phẩm khác. Một trong số đó không thể quên nhắc đến “Rừng xà nu” – Nguyễn Trung Thành viết về những tấm gương anh hùng cách mạnh trong thời kì sục sôi chống giặc Mỹ.

Mở bài gián tiếp 5

Mỗi mảnh đất đều mang một nét đẹp đặc trưng riêng, lại đi vào tâm hồn con người theo cách khác nhau. Với Tây Nguyên – một mảnh đất hùng vĩ và oai nghiêm đã mang nguồn cảm hứng sáng tác cho biết bao nhà văn, những người nghệ sĩ chân chính hiểu và cảm nhận được con người nồng hậu yêu thương mà kiên cường, bất khuất của vùng đất đó. Ta đã từng đọc bài ca chim Chơ-rao ngân vang khúc hát vui tươi, niềm vui chiến thắng của Thu Bồn hay Bóng cây Kơ Nia của Ngọc Anh thổn thức mỗi khi nhắc đến tình yêu thủy chung…Còn đến với Rừng Xà Nu của Nguyễn Trung Thành ta lại thấy được một sức sống bất diệt, bền bỉ của rừng xà nu đặc trưng cho nét tinh thần của người dân vùng đất oai linh này.

Mở bài Rừng xà nu trực tiếp 

Mở bài trực tiếp mẫu 1: 

Đọc truyện ngắn Rừng xà nu, người đọc có ấn tượng mạnh mẽ song trùng là vẻ đẹp của cánh rừng và những người anh hùng trên vùng đất Tây Nguyên huyền thoại. Rừng xà nu được khắc họa từ đầu đến cuối tác phẩm vừa mang nét tự nhiên, vừa tượng cho biết bao tính cách của con người. Trong đó, nổi bật là nhân vật Tnu. Tnu cũng xuất hiện ngay từ đầu rồi đi suốt văn bản, song hành, đầy biến động, để lại ấn tượng đậm nét trong lòng người đọc như rừng xà nu vậy. Một rừng cây – một đời người. Xà nu – loại cây thông chỉ có ở núi rừng nơi đây không chỉ “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng” mà còn góp phần sinh ra, nuôi lớn, bảo vệ và hóa thân vào tinh thần, ý chí, vào sức mạnh anh hùng của mỗi người dân, và đặc biệt là Tnu. Tnu là người con của dân làng cũng là người con của rừng xà nu.

Mở bài trực tiếp mẫu 2

Để dẫn ra một tác phẩm tiêu biểu có thể minh hoạ cho sự tồn tại của “nền văn học sử thi” trong văn học Việt Nam 1945 – 1975 tưởng không có tác phẩm nào tiêu biểu hơn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành. Quả đây là một truyện ngắn mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn (thực ra với các tác phẩm thuộc loại này chỉ nói đến tính sử thi là đủ bởi cảm hứng lãng mạn đã trở thành một phần tất yếu của nó).

Mở bài trực tiếp mẫu 3

Truyện ngắn Rừng xà nu là tác phẩm xuất sắc viết về đề tài miền núi, đề tài chiến tranh, cách mạng. Truyện ngắn này đã đạt giải thưởng Văn học Nguyễn Đình Chiểu năm 1965. Rừng xà nu phản ánh cuộc đấu tranh của đồng bào Tây Nguyên chống Mĩ Ngụy, làm ngời lên lòng yêu nước bất khuất và sức sống kiên cường của người dân Tây Nguyên nói riêng, đồng bào miền Nam nói chung. Tác phẩm Nguyễn Trung Thành nổi bật ở cảm hứng lãng mạn và khuynh hướng sử thi trong văn học giai đoạn 1945 – 1975. Nổi bật lên trong truyện ngắn Rừng xà nu là nhân vật Tnú.

“Súng nổ rung trời giận dữ Người lên như nước vỡ bờ Nước Việt Nam từ máu lửa Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”

Mở bài Rừng xà nu nâng cao 

Mở bài nâng cao mẫu 1: 

Đã có những tháng ngày như thế, những tháng ngày đất nước hừng hực sục sôi trong khí thế của cuộc kháng chiến gian khổ mà anh hùng. Mảnh đất Tây Nguyên đã đi vào văn chương như một huyền thoại về những con người “đẹp từ như trong chân lí sinh ra”, những con người mang vẻ đẹp, sức sống mãnh liệt như những Cây xà nu cao lớn chống lại kẻ thù để bảo vệ quê hương, đất nước. Nguyễn Trung Thành đã tái hiện xuất sắc vẻ đẹp đậm tính sử thi ấy thông qua truyện ngắn “Rừng xà nu” được in trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Rừng xà nu đã đem lại ngỡ ngàng cho người đọc khi một truyện ngắn mà phản ánh được cả một cuộc đầu tranh chống Mỹ ngụy của người dân Tây Nguyên, vì vậy tính sử thi càng được tô đậm rõ nét hơn thông qua cách xây dựng nhân vật, hình tượng cây xà nu và ngôn ngữ của tác phẩm.

Mở bài nâng cao mẫu 2

Tây Nguyên  là một mảnh đất  rất hùng vĩ và thơ mộng với những con người nồng hậu yêu thương và rất  kiên cường bất khuất từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng cho biết bao người nghệ sĩ. Mỗi nhà thơ và nhà văn đã đều tìm thấy ở mảnh đất này một biểu tượng đẹp đẽ cho tâm hồn cất cánh, và cho ngòi bút thăng hoa. Nhà thơ Ngọc Anh đã có “Bóng cây kơ – nia” như một nỗi lòng thổn thức của tình yêu rất thủy chung son sắt. Nhà thơ Thu Bồn có Bài ca chim Chơ – rao ngân vang khúc hát trong trẻo và  nồng đượm tình người chiến thắng. Còn Nguyễn Trung Thành thì  lại cho người đọc chiêm ngưỡng  với một bức tranh thiên nhiên rất  khỏe khoắn mênh mông cùng với  con người Tây Nguyên bất khuất và kiên cường trong tác phẩm của Rừng xà nu. Rừng xà nu là một bản  hùng ca về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên đồng thời cũng chính  là một bài ca hùng tráng ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng của dân tộc Việt Nam trong chiến đấu.

Mở bài nâng cao mẫu 3

Chiến tranh rất ác liệt  đã qua đi không chỉ để lại những đau thương và mất mát mà còn là một  nguồn cảm hứng bất tận cho những áng sử thi văn học cất cánh. Không chỉ có những tác phẩm đã viết về đồng bằng mà còn cả  ở vùng đất Tây Nguyên, cũng rất là  thành công. Để rồi mỗi khi nhắc lại  thì vẫn như còn vẹn nguyên cảm xúc của ngày hôm qua. Có thể nói rằng Rừng xà nu là một  tác phẩm hay nhất đã viết về Tây Nguyên, con người ở Tây Nguyên thời kháng Mĩ. Câu chuyện đã được viết trong vòng hai tiếng rưỡi nhưng đó cũng  là kết quả của nhiều năm thai nghén và  là kết tụ của những tình cảm và  niềm cảm phục với những con người luôn hướng đến với  ánh sáng  của cách mạng và sẵn sàng hi sinh vì cách mạng. Vì vậy, những nhân vật trong tác phẩm đều có một  nguyên mẫu ngoài đời nhưng khi đã đi vào tác phẩm thì đã mang ý nghĩa khái quát. Kể cả những cây xà nu và  những cánh rừng xà nu đều đã  hiện thân của một đất nước anh hùng.

Mở bài nâng cao mẫu 4

Nguyễn Trung Thành là  một nhà văn của mảnh đất Tây Nguyên không phải vì ông đã gắn bó với Tây Nguyên  mà trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ mà còn bởi ông là một người viết hay nhất về Tây Nguyên. Những sáng tác về Tây Nguyên là một trong những tác phẩm  mà thành công nhất. Truyện ngắn Rừng xà nu ra đời vào năm 1965 ở khu căn cứ quân giải phóng ở miền Trung Trung Bộ. Đây là một  thời điểm đã diễn ra cuộc đổ quân đầu tiên của đế quốc Mĩ , ngày bắt đầu cuộc chiến tranh cục bộ ở Việt Nam. Rừng xà nu đã được viết trong những ngày “sục sôi,\ và  nghiêm trang, lo lắng, quyết liệt, hào hứng và rất  hào hùng”. Lúc đầu thì nhà văn đã định viết một truyện ngắn về đồng bằng để cổ vũ và khích lệ cho tinh thần chiến đấu của dân tộc. Nhưng ông đã  không hề viết được một truyện ngắn nào theo như dự định. Đúng lúc ấy, thì cảm hứng về cây xà nu của đất rừng Tây Nguyên và sự anh dũng của con người ở mảnh đất này đã khơi nguồn cảm xúc cho tác giả  đã viết nên truyện ngắn xuất sắc “Rừng xà nu”.

Mở bài Rừng xà nu ngắn gọn

Mở bài ngắn gọn mẫu 1

Nếu như Nguyễn Tuân là một người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp thì Nguyễn Trung Thành lại được coi như là một  người nghệ sĩ suốt đời đi săn tìm cái hùng. Nguyễn Trung Thành là một nhà văn rất  có duyên nợ với Tây Nguyên, cánh cửa văn học nước nhà đã được mở ra ở vùng đất Tây Nguyên bắt đầu chính từ Nguyên Ngọc. Trong đó, thì  rừng xà nu đã được coi là một mốc son raasrt  đặc biệt trong  nền văn học kháng chiến, cũng chính  là bản hùng ca về con người Tây Nguyên thời kháng Mĩ. Truyện ngắn đã làm nổi bật lên  hình tượng cây xà nu và  loài cây “hùng vĩ, cao thượng, man dại và trong sạch” (Nguyễn Trung Thành).

Mở bài ngắn gọn mẫu 2

Những năm 1945 – 1975 dân tộc ta đã phải gánh vác những nhiệm vụ lịch sử rất lớn lao. Đó là đánh đuổi hai kẻ thù xâm lược như là  thực dân Pháp và đế quốc Mĩ cùng với công cuộc xây dựng, kiến thiết Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đòi hỏi ở con người sự chung sức và chung lòng. Chính vì điều này đã tạo   nên được  khuynh hướng sử thi cho văn học giai đoạn 1945 – 1975. Tiêu biểu cho khuynh hướng này thì  phải kể đến tác phẩm của Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành. Bằng tài năng nghệ thuật của mình thì Nguyễn Trung Thành đã tạo dựng nên được hình tượng của nhân vật Tnu  rất tiêu biểu điển hình cho vẻ đẹp của con người Tây Nguyên. Và số phận Tnu cũng đã  gắn liền với con đường đi lên của cộng đồng làng Xô Man.

Mở bài tác phẩm Rừng xà nu khác

Sẽ Liên tục Update nhé các bạn…

Mỗi cá nhân sẽ có cách tiếp cận và phong cách làm bài riêng, nhưng nắm được ý chínhsẽ thúc giúp bạn tìm được cách làm mở bài Rừng xà nu mới lạ và độc đáo, phải không? Hy vọng rằng những cách mở đầu này sẽ giúp bạn có thêm những ý tưởng sáng tạo và ấn tượng nhất nhé!

Filed Under: Ngữ Văn; Tagged With: rừng xà nu

10 mẫu Phân tích tác phẩm Vợ chồng A Phủ đạt 8+ mới nhất

Tác giả Tùng Teng posted 08/03/2024

Trải nghiệm chiều sâu văn chương qua phân tích Vợ chồng A Phủ, một tác phẩm thấm đẫm tinh thần nhân đạo và ngợi ca khát vọng sống. Câu chuyện về những con người vùng cao Tây Bắc sẽ mở ra trước mắt ta bức tranh sống động về cuộc đấu tranh giai cấp, tình yêu đôi lứa và hành trình đi tìm ý nghĩa cuộc sống.

Tham khảo 10 mẫu Phân tích tác phẩm Vợ chồng A Phủ đạt 8+ mới nhất sau đây nhé!

10 mẫu Phân tích tác phẩm Vợ chồng A Phủ đạt 8+ mới nhất

Phân tích vợ chồng A Phủ mẫu 1

Nếu như tác phẩm Dế mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài mang một giọng hồn nhiên trong sáng thì tác phẩm Vợ chồng A Phủ của ông lại mang màu sắc dân tộc đậm đà, chất thơ chất trữ tình thấm đượm. Qua tác phẩm, nhà văn đã dựng nên một bức tranh hiện thực của hai cuộc đời: Mị và A Phủ, những bức tranh đó cũng chứa chan một tấm lòng nhân đạo của Tô Hoài.

Mị, một cô gái xinh đẹp trẻ trung, nhưng lại mang một kiếp sống nghèo của kẻ “thấp cổ bé họng”. Cha mẹ cô không thể trả nổi món nợ nhà thống lí thế là món nợ ấy truyền sang Mị. Tên thống lí tàn bạo ấy lại muốn bắt Mị làm “con dâu gạt nợ”. Mà quan đã muốn là trời muốn, cô Mị về làm dâu nhà quan mà trong lòng mang một mối uất ức không thể giãi bày. Tiếng làm dâu nhưng lại là một thứ nô lệ không hơn không kém, cô mất tất cả quyền sống, quyền được xem là một con người. Ngày trước dẫu nghèo nhưng được tự do, yêu đời, giờ đây vẫn nghèo vẫn cực nhọc lại nhục nhã chịu kiếp sống nô lệ. Qua kiếp sống của Mị, nhà văn bộc lộ một tấm lòng thương người, chua xót cho số phận con người, và cũng qua đó Tô Hoài đã vạch trần cái bản chất bóc lột của giai cấp thống trị. Người ta dùng cái thế lực và tiền bạc “cướp người đàn bà đem về trình ma”, thế là người đàn bà cũng bị cái “ma” vô hình trói cả cuộc đời trong nhà ấy, “chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”.

Mị đã khổ nhiều rồi, trong cái địa ngục trần gian ấy, lại càng khổ hơn khi phải chấp nhận mình là kiếp trâu kiếp ngựa. Cả những con người cứng rắn, có lẽ không khỏi động lòng khi đọc đến câu “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”… Khổ mà đến “quen” rồi quả thật ý thức con người đã bị tê liệt, đã mất đi cái “yếu tố xã hội” để được xem là con người. Chuỗi ngày cực nhục đã cướp đi của Mị sức sống tài năng, cướp đi những thất vọng tuổi trẻ những “lúc hồi hộp chờ đợi người yêu”. Lúc nào và bao giờ cũng thế, công việc cứ nối tiếp nhau vẽ ra trước mặt Mị, cứ những công việc quen thuộc làm đi làm lại “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp… Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế”. Khổ quá, cái khổ cứ chực bóp nát cuộc đời Mị, thế sao Mị không tự tử chết đi cho rồi? Không được bởi “Mị chết thì bố Mị còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ. Mị đành trở lại nhà thống lí”.

Cuộc sống trong cái địa ngục khủng khiếp đã bào mòn đi trái tim yêu đời của Mị, giờ đây nó đã trở nên trơ lì, chai sạn. Mị chỉ còn biết vùi đầu vào công việc: “Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa”, “càng ngày mị càng không nói, cứ lùi lũi như một con rùa nuôi trong xó cửa”. Thế giới của Mị thu vào một “cái buồng kín mít, chỉ có chiếc cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Ý thức đã hoàn toàn biến dạng, Mị nhìn ra cuộc đời bằng ô cửa sổ, mà lại chẳng biết gì ngoài ấy thì có phải Mị đã quên mình là con người! Rõ ràng Tô Hoài đã tuân thủ nguyên tắc biện chứng của chủ nghĩa hiện thực một cách nghiêm ngặt: hoàn cảnh đã tác động vào tính cách Mị. Vợ chồng A Phủ chính là một bản cáo trạng đanh thép kết án những bọn cường hào thống lí và Tô Hoài đã mở rộng tấm lòng mình để bao bọc, che chở, bênh vực cho những người phụ nữ miền núi chịu hai tầng bóc lột.

Bức tranh hiện thực được hoàn chỉnh hơn với sự xuất hiện của A Phủ, một chàng trai khỏe mạnh cường tráng, trung thực. Chỉ vì những cuộc ẩu đả thường tình mà A Phủ bị đưa ra xử kiện thật là vô lí. Nhưng vấn đề ở chỗ: Người đúng là con dân còn kẻ sai là con quan, hơn nữa, quan lại là người xử kiện. Như thế chẳng biết “công lí” có còn ngự trị nơi quan đường? Chỉ biết rằng A Phủ đang là một con chim xoã cánh trong bầu trời tự do bỗng chốc bị nhốt trong lồng, bị trở thành nô lệ. Dường như cuộc đời A Phủ có lặp lại ít nhiều những biến thái của cuộc đời Mị. Đó là số phận chung cho những người miền núi thời bấy giờ.

Nhắc đến tác phẩm, người ta nhắc đến tính hiện thực và giá trị nhân đạo. Hiện thực mà chỉ bằng tố cáo phê phán thì còn khiếm khuyết, “nhân đạo” mà chỉ có yêu và ghét thì chưa phải là nhân đạo. Nhà văn cần phải hiểu nhân vật và tìm ra con đường tất yếu mà nhân vật phải đi. Tính cách nhân vật phát triển theo hoàn cảnh và được Tô Hoài phân tích theo con đường phát triển của tâm lí nhân vật. Thiết nghĩ đây mới là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo độc đáo của tác phẩm. Nhân cách Mị bị chôn vùi trong cái địa ngục trần gian là hợp lí, sống cho ra người thì không sống được muốn chết cũng không chết được. Có phải Mị đã ở cái trạng thái “sống dở chết dở”. Rồi Mị phải quen, phải chịu đựng, và trở nên chai lì như một cỗ máy. Liệu Mị có còn lối thoát? Nếu như có một hoàn cảnh đã làm tê liệt ý thức con người thì sẽ có một hoàn cảnh để vực dậy trong lòng họ một sức sống. Nghe như mơ hồ nhưng đó là sự thực. Khi chứng kiến A Phủ bị trói, lúc đầu “Mị thản nhiên thổi lửa hơ tay. nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”. Nhưng “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ” chính là “hoàn cảnh” đã giúp Mị sống dậy. “Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lóe Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở. Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Mị bắt gặp dòng nước mắt ấy và nhớ về mình, Mị cũng phải trói đứng thế kia và Mị cũng khóc “nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được”. Dòng nước mắt là sự đồng cảm giữa hai con người. Dòng nước mắt của A Phủ đã làm bỏng rát vết thương trong lòng Mị. Tất cả thôi thúc Mị cởi trói cho A Phủ và cả hai người “lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi”. Họ đến lập nghiệp ở Phiềng Sa. Thế rồi chẳng bao lâu sau, cái đồn Tây, lại lù lù xuất hiện, cha con thống lí lại vào ở đó. Trước mắt hai người chỉ còn một sự lựa chọn: trở về kiếp sống nô lệ hoặc chống kẻ thù. Cách mạng rồi sẽ đến với họ và họ sẽ trở thành người của cách mạng.

Muốn phân biệt giữa giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo là điều không phải dễ. Thực ra, cả hai hòa quyện vào nhau, đan xen vào nhau. Có ghét nhà văn mới tố cáo bọn thống lí Pá Tra, có thương cảm nhà văn mới viết được những câu văn đầy xúc động, có hiểu nhà văn mới đi sâu vào cuộc sống tâm lí con người. Và Tô Hoài có thông cảm với nhân vật lắm mới có thể xét đoán tinh tế cuộc sống tinh thần của Mị. Những ngày tháng đầu tiên ở nhà thống lí Mị cứ khóc có đến hàng mấy tháng, thế rồi định ăn lá ngón để tự tử vì không chịu nhục. Nhưng vẫn cố sống, sống một cách gượng gạo vì chữ hiếu. Mị nghèo vật chất nhưng không nghèo tình thương, lòng Mị vẫn âm ỉ một khao khát sống khao khát được tự do. Nếu như nhà văn lạnh lùng theo chủ nghĩa hiện thực khách quan thì làm sao nhà văn nắm bắt được cái khoảnh khắc ngắn ngủi nhưng vẫn “tồn tại đời đời” ấy.

Rõ ràng nhà văn Tô Hoài tuân theo chủ nghĩa hiện thực nhưng ông tin rằng hoàn cảnh dẫu có khắc nghiệt vẫn không thể vùi dập hoàn toàn nhân tính. Hoàn cảnh tác động tính cách nhưng không giết chết tính cách. Trải qua hơn nửa thế kỉ, tác phẩm vẫn còn còn nguyên giá trị hiện thực và nhân đạo cao cả của nó. Vì vậy truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” mới mãi mãi đọng lại trong lòng người đọc.

Phân tích vợ chồng A Phủ mẫu 2

Tô Hoài là nhà văn tài năng, cần mẫn, ông sáng tác trên nhiều thể loại. Ông là nhà văn của sự thật đời thường, ông có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau. Trước Cách mạng, ông chủ yếu hướng ngòi bút của mình về nông thôn nghèo và thế giới loài vật. Sau Cách mạng, ông hướng đến những vùng nông thôn rộng lớn, đặc biệt là Tây Bắc. “Vợ chồng A Phủ” là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc của ông. Tác phẩm đã lên án tố cáo chế độ phong kiến miền núi chà đạp, áp bức quyền sống, quyền hạnh phúc của con người. Bên cạnh đó, tác phẩm cũng thấm đẫm tinh thần nhân đạo. Cảm thương cho số phận những người lao động nghèo bất hạnh, bị tước đoạt đi quyền sống, bị hành hạ về thể xác lẫn tinh thần. Đồng thời trân trọng ngợi ca sức sống tiềm tàng, luôn biết hướng đến một tương lai tốt đẹp.
Tiêu biểu cho những con người, những số phận ấy chính là Mị, một phụ nữ đã chịu muôn vàn cay đắng. Song, cũng chính người phụ nữ ấy luôn tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt để khi bị chà đạp đến tận cùng đã trỗi dậy mạnh mẽ. Mị xuất hiện ngay từ những dòng đầu của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Đó là hình ảnh một cô con gái ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa ở nhà thống lí Pá Tra. Nhưng thực ra, đây là một cô Mị khác, còn cô Mị ngày xưa dường như đã chết rồi.
Trước khi về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí, Mị là một cô gái xinh đẹp, yêu đời, yêu cuộc sống tự do. Mị có tài thổi sáo giỏi “thổi lá cũng hay như thổi sáo” khiến “có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Tuy sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, ngày xưa bố mẹ phải vay tiền để cưới nhau, đến khi mẹ Mị chết vẫn chưa trả hết nợ nhưng Mị luôn có ý thức về cuộc sống của mình. Cô đã nói với bố: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu” khi thống lí muốn bắt Mị về làm con dâu gạt nợ. Đó là tiếng nói của sự phản kháng tục dùng con người làm vật thế mạng cho món nợ tiền bạc của các dân tộc miền núi. Lệ tục cổ hủ này đã cướp đi cuộc sống tự do của biết bao con người. Đồng thời câu nói ấy cũng thể hiện niềm tin vào sức sống của bản thân trong con người Mị. Mị tin rằng mình có thể làm nương ngô để trả nợ thay cho bố.
Nhưng Mị đã bị A Sử cướp và đem về “cúng trình ma” nhà thống lí. Cuộc đời của Mị đã gắn liền với số phận của người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí Pá Tra. Cô phẫn uất, đau đớn cho chính thân phận của mình. Có đến hàng mấy tháng, đêm nào cô cũng khóc. Mị định tự tử bằng lá ngón nhưng cô “không đành lòng chết” vì thương bố. Có lẽ chết là cách tốt nhất để Mị giải thoát cuộc đời nô lệ, Mị sẽ không phải xót xa hay căm hờn gì nữa.
Từ thái độ phản kháng, Mị trở nên cam chịu hoàn cảnh. Mị đã quen với cái khổ, “Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa” quần quật làm việc cả ngày lẫn đêm không được nghỉ ngơi. Những công việc hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, bẻ bắp, quay sợi, dệt vải, chẻ củi, cõng nước,…cứ nối tiếp nhau “vẽ ra trước mặt” thúc giục cô phải làm. Phải chăng vì thế mà “mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Càng ngày, Mị càng câm lặng, chấp nhận số phận mà không một lời oán trách. Khuôn mặt cô dù trong hoàn cảnh nào cũng “buồn rười rượi”. Người phụ nữ ấy đã bị những khổ cực làm chai lì cảm xúc, mất hết ý niệm về thời gian, không gian vì buồng Mị nằm có cái cửa sổ có một lỗ vuông bằng bàn tay, “lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Tưởng rằng Mị đã vô cảm với thế giới bên ngoài nhưng chính thiên nhiên Tây Bắc vào mùa xuân mà âm thanh của tiếng sáo là tác nhân khơi dậy lòng yêu đời, sức sống trong con người Mị. Tiếng sáo đã đánh thức tâm hồn bấy lâu ngủ quên của cô. Mị cảm nhận được âm hưởng ‘thiết tha bổi hổi” của tiếng sáo gọi bạn đi chơi. Không khí của những ngày Tết khiến Mị “sống về những ngày trước”. Mị uống rượu, “uống ừng ực từng bát” như nuốt trôi đi tất cả niềm phẫn uất vào trong. Tâm hồn Mị “phơi phới trở lại”. Điều đặc biệt là Mị đã có ý thức về bản thân, cô nhận ra mình vẫn còn trẻ và muốn được đi chơi ngày Tết. Mong muốn đã chuyển sang thành hành động: “Mị lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng” rồi quấn lại tóc, “lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách” sửa soạn đi chơi. Tiếng sáo lửng lơ, mời gọi khiến Mị không thể chối từ. Cô đã thực sự hồi sinh và lột xác để thoát ra khỏi vòng áp chế của các thế lực cường quyền, thần quyền, phu quyền.
Không chỉ khắc họa thân phận người phụ nữ, Tô Hoài còn khắc họa thân phận của người đàn ông miền núi chịu cuộc đời nô lệ. Đó là A Phủ, anh mồ côi cha mẹ từ khi còn nhỏ, không có người thân thích. Anh trở thành món hàng để đổi lấy thóc của người Thái nhưng “A Phủ gan bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp, A Phủ trốn lên núi, lưu lạc đến Hồng Ngài”. Tuy nghèo khó nhưng A Phủ biết lao động để tự nuôi sống bản thân. Anh biết “đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”. Vì thế nhiều cô gái đã ví có được A Phủ “cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”. Con người A phủ có sự gan góc, biết vượt qua khó khăn, khổ cực và nguy hiểm. Anh sống tự do, gần gũi với thiên nhiên nhưng vì tội đánh con thống lí mà phải chịu thân phận nô lệ. A Phủ đánh A Sử không phải do tính cách hiếu chiến, ngang tàn mà là do anh không chấp nhận sự thống trị, lên ngôi của cái ác. Sự áp chế của cường quyền đã đẩy một con người tự do, phóng khoáng trở thành một con người cam chịu số phận. A Phủ phải chịu những trận đòn roi tàn nhẫn nhưng anh “chỉ im như cái tượng đá”. Anh đã chấp nhận cuộc đời đi ở trừ nợ cho nhà thống lí. Vì mải mê bẫy chim mà A Phủ để hổ bắt mất một con bò. A Phủ bị trói đứng vào cột bằng “dây mây quấn từ chân đến vai”. Tình cảnh này đã lay động được tình thương, lòng đồng cảm của Mị. Cô nghĩ rằng: “Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết” và Mị đã cắt dây trói cứu A Phủ. Hành động “quật sức vùng lên chạy” phần nào cho thấy khát vọng sống, khát vọng chấm dứt thân phận đi ở trừ nợ của anh. Anh đã thức tỉnh để đến với khu du kích Phiềng Sa, tham gia vào Cách mạng.
Thông qua tác phẩm, nhà văn Tô Hoài muốn tố cáo chế độ phong kiến và giai cấp thống trị bóc lột con người bằng hình thức cho vay nặng lãi. Vì món nợ của cha mẹ mà Mị bị mang ra làm vật thế mạng. Ông cũng lên án những hủ tục lạc hậu như “cúng trình ma” đã buộc con người vào vòng mê tín, khiến họ không dám thoát ra vòng vây để tự cứu lấy mình. Đồng thời, tác giả cũng thể hiện lòng xót xa, cảm thông với những người dân lao động miền núi phải cam chịu sự áp bức của tầng lớp thống trị thủ đoạn, gian ác. Tô Hoài ca ngợi sức sống mãnh liệt tiềm tàng trong con người họ. Chính sức sống ấy đã giúp họ giải thoát họ khỏi cuộc đời nô lệ để đến với cách mạng, đến với cuộc sống tự do. Bằng bút pháp cá thể hóa, nhà văn đã xây dựng nên hai nhân vật đại diện cho những con người có phẩm chất tốt đẹp nhưng phải chịu số phận bất hạnh, đau khổ. Mị tiêu biểu cho kiểu nhân vật tâm trạng và A Phủ tiêu biểu cho kiểu nhân vật hành động. Làm nền cho sự nổi bật của con người trong thiên truyện là bức tranh thiên nhiên Tây Bắc tuyệt đẹp: “gió thổi vào gianh vàng ửng”, “trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ”. Đây là những chi tiết nghệ thuật giàu tính tạo hình. Cùng với đó là các phong tục, tập quán như tục bắt vợ, cảnh phạt vạ, cảnh xử kiện được hiện lên độc đáo. Truyện được kể theo ngôi thứ ba, điểm nhìn trần thuật có sự thay đổi từ điểm nhìn của người đi xa về đến điểm nhìn của người trong cuộc nên vừa mang tính khách quan lại vừa chứa chan sự cảm thông với nhân vật. Ngoài ra, Tô Hoài còn xây dựng những chi tiết giàu sức gợi và ý nghĩa như chi tiết tiếng sáo, tiếng chân ngựa đạp vào vách,… Ngôn ngữ văn xuôi đậm chất thơ cũng là một yếu tố quan trọng tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm.
Với tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã mang đến cho bạn đọc cái nhìn bao quát, toàn diện về bức tranh cuộc sống của người dân Tây Bắc. Trang sách đã khép lại nhưng dư âm của nó thì còn vang mãi. Và tuy Tô Hoài đã ra đi nhưng những tác phẩm của ông vẫn vẹn nguyên giá trị trong lòng bạn đọc hôm nay và cả mai sau.

Phân tích vợ chồng A Phủ mẫu 3

Tô Hoài đã kể lại rằng: “Cái kết quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi tám tháng ấy là đất nước và con người miền Tây đã để thương, để nhớ trong tôi nhiều quá, tôi không thể bao giờ quên. Tôi không thể bao giờ quên được lúc vợ chồng A Phủ tiễn tôi ra khỏi hốc núi làng Tà Sùa rồi cùng vẫy tay gọi theo: Chéo lù! Chéo lù!”. Có lẽ đây chính là lí do để ông viết tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” như lời tri ân dành cho con người nơi rẻo cao Tây Bắc.
Truyện ngắn này được in trong tập “Truyện Tây Bắc” (1952) và được tặng giải Nhất – Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. “Vợ chồng A Phủ” là bức tranh Tây Bắc với những phong tục, tập quán riêng biệt. Ở phần một của tác phẩm, Tô Hoài đã chủ yếu khắc họa cuộc sống của nhân vật Mị và A Phủ khi họ ở Hồng Ngài, sống cuộc sống nô lệ trong nhà thống lí Pá Tra.
Trước khi về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí, Mị là một cô gái xinh đẹp, yêu đời, yêu cuộc sống tự do. Mị có tài thổi sáo giỏi, “thổi lá cũng hay như thổi sáo” khiến “có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Tuy sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, ngày xưa bố mẹ phải vay tiền để cưới nhau, đến khi mẹ Mị chết vẫn chưa trả hết nợ nhưng Mị luôn có ý thức về cuộc sống của mình. Cô đã nói với bố: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu” khi thống lí muốn bắt Mị về làm con dâu gạt nợ.
Đó là tiếng nói của sự phản kháng tục dùng con người làm vật thế mạng cho món nợ tiền bạc của các dân tộc miền núi. Lệ tục cổ hủ này đã cướp đi cuộc sống tự do của biết bao con người. Đồng thời câu nói ấy cũng thể hiện niềm tin vào sức sống của bản thân trong con người Mị. Mị tin rằng mình có thể làm nương ngô để trả nợ thay cho bố.
Nhưng Mị đã bị A Sử cướp và đem về “cúng trình ma” nhà thống lí. Cuộc đời của Mị đã gắn liền với số phận của người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí Pá Tra. Cô phẫn uất, đau đớn cho chính thân phận của mình. Có đến hàng mấy tháng, đêm nào cô cũng khóc. Mị định tự tử bằng lá ngón nhưng cô “không đành lòng chết” vì thương bố. Có lẽ chết là cách tốt nhất để Mị giải thoát cuộc đời nô lệ, Mị sẽ không phải xót xa hay căm hờn gì nữa.
Từ thái độ phản kháng, Mị trở nên cam chịu hoàn cảnh. Mị đã quen với cái khổ, “Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa” quần quật làm việc cả ngày lẫn đêm không được nghỉ ngơi. Những công việc hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, bẻ bắp, quay sợi, dệt vải, chẻ củi, cõng nước,…cứ nối tiếp nhau “vẽ ra trước mặt” thúc giục cô phải làm. Phải chăng vì thế mà “mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Càng ngày, Mị càng câm lặng, chấp nhận số phận mà không một lời oán trách.
Khuôn mặt cô dù trong hoàn cảnh nào cũng “buồn rười rượi”. Người phụ nữ ấy đã bị những khổ cực làm chai lì cảm xúc, mất hết ý niệm về thời gian, không gian vì buồng Mị nằm có cái cửa sổ có một lỗ vuông bằng bàn tay, “lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”.Tưởng rằng Mị đã vô cảm với thế giới bên ngoài nhưng chính thiên nhiên Tây Bắc vào mùa xuân mà âm thanh của tiếng sáo là tác nhân khơi dậy lòng yêu đời, sức sống trong con người Mị. Tiếng sáo đã đánh thức tâm hồn bấy lâu ngủ quên của cô.
Mị cảm nhận được âm hưởng ‘thiết tha bổi hổi” của tiếng sáo gọi bạn đi chơi. Không khí của những ngày Tết khiến Mị “sống về những ngày trước”. Mị uống rượu, “uống ừng ực từng bát” như nuốt trôi đi tất cả niềm phẫn uất vào trong. Tâm hồn Mị “phơi phới trở lại”. Điều đặc biệt là Mị đã có ý thức về bản thân, cô nhận ra mình vẫn còn trẻ và muốn được đi chơi ngày Tết. Mong muốn đã chuyển sang thành hành động: “Mị lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng” rồi quấn lại tóc, “lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách” sửa soạn đi chơi.
Tiếng sáo lửng lơ, mời gọi khiến Mị không thể chối từ. Cô đã thực sự hồi sinh và lột xác để thoát ra khỏi vòng áp chế của các thế lực cường quyền, thần quyền, phu quyền. Nhưng ý định của Mị chưa thực hiện được thì cô đã bị A Sử trói đứng vào cột nhà bằng cả thúng sợi đay. Dường như Mị đã quên đi nỗi đau về thể xác để tâm hồn đi theo những cuộc chơi. Tiếng chân ngựa đạp vào vách đưa Mị trở về thực tại, “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Thân phận làm dâu gạt nợ nhà thống lí không khác gì thậm chí là không bằng thân phận của những con vật như con trâu, con ngựa.
Ẩn đằng sau con người cam chịu đó là một sức sống tiềm tàng đến mãnh liệt. Điều ấy được thể hiện qua chi tiết Mị cắt dây trói cho A Phủ và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài. Đây cũng là hành động cởi trói, tự giải thoát cho chính mình. Nó xuất phát từ tấm lòng “thương người như thể thương thân” của cô. Mị đã tự giải thoát cho mình khỏi sự áp bức, đè nén của cường quyền, thần quyền, phu quyền. Hành động tuy có tính tự phát nhưng vô cùng hợp lí.
Không chỉ khắc họa thân phận người phụ nữ, Tô Hoài còn khắc họa thân phận của người đàn ông miền núi chịu cuộc đời nô lệ. Đó là A Phủ, anh mồ côi cha mẹ từ khi còn nhỏ, không có người thân thích. Anh trở thành món hàng để đổi lấy thóc của người Thái nhưng “A Phủ gan bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp, A Phủ trốn lên núi, lưu lạc đến Hồng Ngài”.
Tuy nghèo khó nhưng A Phủ biết lao động để tự nuôi sống bản thân. Anh biết “đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”. Vì thế nhiều cô gái đã ví có được A Phủ “cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”. Con người A phủ có sự gan góc, biết vượt qua khó khăn, khổ cực và nguy hiểm. Anh sống tự do, gần gũi với thiên nhiên nhưng vì tội đánh con thống lí mà phải chịu thân phận nô lệ.
A Phủ đánh A Sử không phải do tính cách hiếu chiến, ngang tàn mà là do anh không chấp nhận sự thống trị, lên ngôi của cái ác. Sự áp chế của cường quyền đã đẩy một con người tự do, phóng khoáng trở thành một con người cam chịu số phận. A Phủ phải chịu những trận đòn roi tàn nhẫn nhưng anh “chỉ im như cái tượng đá”. Anh đã chấp nhận cuộc đời đi ở trừ nợ cho nhà thống lí. Vì mải mê bẫy chim mà A Phủ để hổ bắt mất một con bò. A Phủ bị trói đứng vào cột bằng “dây mây quấn từ chân đến vai”.
Tình cảnh này đã lay động được tình thương, lòng đồng cảm của Mị. Cô nghĩ rằng: “Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết” và Mị đã cắt dây trói cứu A Phủ. Hành động “quật sức vùng lên chạy” phần nào cho thấy khát vọng sống, khát vọng chấm dứt thân phận đi ở trừ nợ của anh. Anh đã thức tỉnh để đến với khu du kích Phiềng Sa, tham gia vào cách mạng.
Truyện “Vợ chồng A Phủ” chứa đựng những giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo cao cả.Thông qua tác phẩm, nhà văn Tô Hoài muốn tố cáo chế độ phong kiến và giai cấp thống trị bóc lột con người bằng hình thức cho vay nặng lãi. Vì món nợ của cha mẹ mà Mị bị mang ra làm vật thế mạng. Ông cũng lên án những hủ tục lạc hậu như “cúng trình ma” đã buộc con người vào vòng mê tín, khiến họ không dám thoát ra vòng vây để tự cứu lấy mình.
Đồng thời, tác giả cũng thể hiện lòng xót xa, cảm thông với những người dân lao động miền núi phải cam chịu sự áp bức của tầng lớp thống trị thủ đoạn, gian ác. Tô Hoài ca ngợi sức sống mãnh liệt tiềm tàng trong con người họ. Chính sức sống ấy đã giúp họ giải thoát họ khỏi cuộc đời nô lệ để đến với cách mạng, đến với cuộc sống tự do.
Bằng bút pháp cá thể hóa, nhà văn đã xây dựng nên hai nhân vật đại diện cho những con người có phẩm chất tốt đẹp nhưng phải chịu số phận bất hạnh, đau khổ. Mị tiêu biểu cho kiểu nhân vật tâm trạng và A Phủ tiêu biểu cho kiểu nhân vật hành động. Làm nền cho sự nổi bật của con người trong thiên truyện là bức tranh thiên nhiên Tây Bắc tuyệt đẹp: “gió thổi vào gianh vàng ửng”, “trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ”. Đây là những chi tiết nghệ thuật giàu tính tạo hình.
Cùng với đó là các phong tục, tập quán như tục bắt vợ, cảnh phạt vạ, cảnh xử kiện được hiện lên độc đáo. Truyện được kể theo ngôi thứ ba, điểm nhìn trần thuật có sự thay đổi từ điểm nhìn của người đi xa về đến điểm nhìn của người trong cuộc nên vừa mang tính khách quan lại vừa chứa chan sự cảm thông với nhân vật. Ngoài ra, Tô Hoài còn xây dựng những chi tiết giàu sức gợi và ý nghĩa như chi tiết tiếng sáo, tiếng chân ngựa đạp vào vách,… Ngôn ngữ văn xuôi đậm chất thơ cũng là một yếu tố quan trọng tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm.
Với tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã mang đến cho bạn đọc cái nhìn bao quát, toàn diện về bức tranh cuộc sống của người dân Tây Bắc. Trang sách đã khép lại nhưng dư âm của nó thì còn vang mãi. Và tuy Tô Hoài đã ra đi nhưng những tác phẩm của ông vẫn vẹn nguyên giá trị trong lòng bạn đọc hôm nay và cả mai sau.

Phân tích vợ chồng A Phủ mẫu 4

Tô Hoài là một trong những cây bút truyện ngắn nổi tiếng của văn học Việt Nam hiện đại. Với lối trần thuật hóm hỉnh cùng sở trường về loại truyện phong tục và hồi ký ông đã để lại rất nhiều tác phẩm có giá trị. “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm làm nên tên tuổi của ông.

“Vợ chồng A Phủ” được rút từ tập “Tây Bắc”. Tác phẩm kể về cuộc sống nô lệ của Mị và A Phủ trong nhà thống lý Pá Tra. Để trả món nợ của cha, Mị phải trở thành dâu nhà thống lý, sống một cuộc sống khổ cực, bị kìm hãm tự do. Trong lời kể của Tô Hoài, cuộc sống của Mị hiện lên trong cảnh giàu sang nhưng ẩn sâu bên trong đó là một cuộc sống bị giam cầm cả thể xác lẫn tâm hồn. Câu chuyện về Mị đã phần nào giúp người đọc hiểu được số phận cùng cực của con người dưới sự thống trị của bọn phong kiến chúa đất.

Tô Hoài đã khéo léo sử dụng kết cấu hồi tưởng, trần thuật ở hiện tại rồi ngược về quá khứ để kể về cuộc đời Mị một cách vô cùng linh hoạt. Trước khi về làm dâu nhà thống lí, Mị là một cô gái xinh đẹp, vui tươi, yêu đời và tràn đầy sự sống. Thế nhưng chỉ vì muốn trả món nợ truyền kiếp của cha mẹ mà cô phải làm dâu nhà thống lí. Cuộc sống hôn nhân không có tình yêu của Mị không chỉ bị trói buộc bởi món nợ truyền kiếp mà còn bị ràng buộc bởi những tập tục cổ hủ, lỗi thời. Cách gọi “dâu gạt nợ” từ đó mà hé nở cuộc sống đầy đau thương cùng những bi kịch mà Mị phải chịu đựng.

Sống ở nhà thống lí trước hết Mị phải chịu bóc lột về thể xác. Mị phải làm việc cực khổ cho nhà thống lí không phân biệt ngày hay đêm, làm việc hết ngày này qua tháng nọ, không ngừng nghỉ. Mị giống như bị cột trong vòng quay luẩn quẩn của công việc, không có tự do, không có lối thoát. Qua cách kể của Tô Hoài, Mị hiện lên như một cỗ máy lao động không công trong nhà thống lí Pá Tra để rồi đã nhiều hơn một lần Mị thấy mình còn không bằng kiếp trâu ngựa trong nhà. Nói về tháng ngày Mị sống ở nhà thống lí nhiều người cho rằng đây là một cuộc sống đang dần bị vật hoá. Không chỉ vậy, Mị còn bị chồng mình là A Sử đánh đập, hành hạ. Đã nhiều lần hắn uống say về rồi lôi Mị ra đánh một cách vô lý nhưng đỉnh điểm nhất là trong đêm tình mùa xuân. Một cô gái đã mất hết tự do, ngày ngày chỉ quanh quẩn với công việc bỗng nhận ra những âm thanh của mùa xuân, muốn được ra ngoài đi chơi thì lại bị chính chồng của mình trói lại, đánh đập. Trong đoạn này, Tô Hoài đã miêu tả chi tiết hành động tàn nhẫn của A Sử, từ cách hắn trói đứng Mị, cột tóc Mị đến cách đánh đập Mị. Câu chuyện hiện lên như một thước phim quay chậm dần lột tả hết bộ mặt tàn ác của tầng lớp thống trị ngang tàn mà A Sử là đại diện tiêu biểu nhất. Ở nhà thống lí, Mị đã phải sống một cuộc sống bị trói buộc cả thể xác lẫn tinh thần. Cô không chỉ bị ngăn cách với cuộc sống ngoài kia đến nỗi mất hết khái niệm về thời gian mà còn bị tước đi quyền sống, quyền được làm người.
Cũng trong đêm tình mùa xuân ấy sức sống tiềm tàng trong Mị đã trỗi dậy. Không còn là câu chuyện về cô gái hàng ngày phải sống trong đau đớn, khổ cực rồi dần thành quen với cái khổ, âm thanh tiếng sáo gọi bạn tình đã đánh thức khao khát được yêu thương trong sâu thẳm tâm hồn Mị. Chính tiếng sáo đó cũng thức tỉnh ý thức về quyền sống, quyền làm người trong Mị. Nghệ thuật độc thoại nội tâm đã được Tô Hoài khai thác thành công khi ông khéo léo “luồn lách” ngòi bót vào từng ngóc ngách của đời sống tâm hồn Mị. Ông miêu tả chi tiết đến từng hành động, khắc họa rõ nét đến từng tâm trạng để thấy sự thay đổi trong con người Mị. Sự thay đổi của một cô gái đã cam chịu với số phận cùng cực, muốn vùng lên để làm chủ cuộc sống của chính mình. Nhưng rồi cô lại bị chính người chồng của mình trói buộc lại. Đó là hành động trói buộc cả về thể xác lẫn tâm hồn Mị.

Sau đêm hôm đó, người đọc lại thấy hiện lên hình ảnh cô Mị lầm lũi ngày nào. Ý thức về cuộc sống tự do mới nhen nhóm lại tiếp tục bị tê liệt bởi cuộc sống khổ sai cùng cực, bởi sự đánh đập, hành hạ giã man. Những tưởng rằng tất cả điều đó đã làm mất đi niềm khát khao sống trong Mị nhưng không ai có thể ngờ rằng nó lại chính là động lực to lớn để Mị cởi trói cứu A Phủ trong đêm đông giá rét. Hành động cởi trói của Mị đã giải thoát cho A Phủ nhưng nó cũng giống như Mị đang tự giải thoát cho chính mình, Mị đã tự đi tìm quyền sống và tự trao cho mình quyền được sống, quyền được làm người.

Có thể thấy từng nét thay đổi trong thế giới nội tâm của Mị đều được nhà văn tái hiện, miêu tả vô cùng chân thật. Cũng chính từ việc khai thác triệt để tính cách tâm hồn Mị, Tô Hoài đã từng bước đưa người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Hoá ra Mị không phải là một cô gái cam chịu. Hoá ra chế độ cai trị của bọn lãnh chúa có tàn bạo đến nhường nào thì cũng không ngăn được khát khao được sống, được làm người của Mị nói riêng và nhân dân lao động nói chung. Miêu tả Mị, Tô Hoài không chỉ thể hiện sự xót xa, đồng cảm của mình với những số phận bị chà đạp, bị cướp đi quyền được làm người mà ông còn gián tiếp tố cáo xã hội nhơ nhuốc đã tước đi quyền sống của con người.

Bên cạnh việc khắc hoạ thành công nhân vật Mị, A Phủ cũng là một nhân vật đáng được quan tâm trong tác phẩm này. A Phủ mồ côi cha mẹ từ nhỏ, cậu đã trở thành một món hàng, một vật trao đổi và chính thức mất đi tự do từ đó. Là một đứa trẻ mồ côi, lớn lên không có sự bảo bọc, chăm sóc của cha mẹ, cũng không có một mái nhà để nương tựa, ruộng vườn không có, tiền bạc cũng không nên A Phủ cũng không thể xây dựng tổ ấm cho mình. Nhưng những điều đó không làm mất đi phẩm chất cao đẹp trong con người này. A Phủ là một chàng trai khoẻ mạnh, tính tình phóng khoáng. Anh là một con người mạnh mẽ, có thể vượt lên mọi khắc nghiệt của cuộc sống để kiếm tiền nuôi sống bản thân mình. Nhưng số phận bất hạnh cứ bám theo, đày đọa A Phủ để rồi giống như Mị, A Phủ cũng bị biến thành một người ở gạt nợ trong nhà thống lý Pá Tra. Ở đây, A Phủ cũng bị đày đọa, bóc lột, bị đối xử vô cùng rẻ rung. Nhưng cuộc sống có tàn khốc đến đâu cũng không thể kìm hãm được khát khao tự do trong con người này. Ngay trong cái đêm đông được Mị giải cứu, A Phủ đã cùng Mị trốn khỏi nơi “ngục tù” đày đọa đó để đi tìm cuộc sống tốt đẹp hơn cho chính mình. Kết thúc truyện A Phủ và Mị cùng nhau bỏ trốn khỏi nhà thống lí, giải phóng bản thân, hướng về tự do.

Có thể thấy, hai nhân vật, hai tính cách, hai kiểu miêu tả: nếu Mị là kiểu nhân vật tâm trạng thì A Phủ lại là nhân vật hành động nhưng lại vô cùng hài hòa cùng tạo nên một “Vợ chồng A Phủ” vô cùng thành công trong lòng độc giả. Bên cạnh đó, nghệ thuật miêu tả thiên nhiên cùng những phong tục tập quán đã làm nên một bức phông nền vùng cao chân thật, sống động để hai nhân vật có thể thỏa sức bộc lộ những nét tính cách của mình.

Với tất cả những điều đó “Vợ chồng A Phủ” được đánh giá là tác phẩm kết tinh giữa giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Tác phẩm không chỉ là bản án tố cáo chế độ cai trị tàn bạo mà còn thể hiện niềm xót xa, trân trọng của nhà văn với những kiếp người phải sống trong sự cai trị đó.

Phân tích vợ chồng A Phủ mẫu 5

Tô Hoài đã kể lại rằng: “Cái kết quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi tám tháng ấy là đất nước và con người miền Tây đã để thương, để nhớ trong tôi nhiều quá, tôi không thể bao giờ quên. Tôi không thể bao giờ quên được lúc vợ chồng A Phủ tiễn tôi ra khỏi hốc núi làng Tà Sùa rồi cùng vẫy tay gọi theo: Chéo lù! Chéo lù!”. Có lẽ đây chính là lí do để ông viết tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” như lời tri ân dành cho con người nơi rẻo cao Tây Bắc.

Truyện ngắn này được in trong tập “Truyện Tây Bắc” (1952) và được tặng giải Nhất – Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. “Vợ chồng A Phủ” là bức tranh Tây Bắc với những phong tục, tập quán riêng biệt. Ở phần một của tác phẩm, Tô Hoài đã chủ yếu khắc họa cuộc sống của nhân vật Mị và A Phủ khi họ ở Hồng Ngài, sống cuộc sống nô lệ trong nhà thống lí Pá Tra.

Trước khi về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí, Mị là một cô gái xinh đẹp, yêu đời, yêu cuộc sống tự do. Mị có tài thổi sáo giỏi, “thổi lá cũng hay như thổi sáo” khiến “có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Tuy sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, ngày xưa bố mẹ phải vay tiền để cưới nhau, đến khi mẹ Mị chết vẫn chưa trả hết nợ nhưng Mị luôn có ý thức về cuộc sống của mình. Cô đã nói với bố: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu” khi thống lí muốn bắt Mị về làm con dâu gạt nợ. Đó là tiếng nói của sự phản kháng tục dùng con người làm vật thế mạng cho món nợ tiền bạc của các dân tộc miền núi. Lệ tục cổ hủ này đã cướp đi cuộc sống tự do của biết bao con người. Đồng thời câu nói ấy cũng thể hiện niềm tin vào sức sống của bản thân trong con người Mị. Mị tin rằng mình có thể làm nương ngô để trả nợ thay cho bố.

Nhưng Mị đã bị A Sử cướp và đem về “cúng trình ma” nhà thống lí. Cuộc đời của Mị đã gắn liền với số phận của người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí Pá Tra. Cô phẫn uất, đau đớn cho chính thân phận của mình. Có đến hàng mấy tháng, đêm nào cô cũng khóc. Mị định tự tử bằng lá ngón nhưng cô “không đành lòng chết” vì thương bố. Có lẽ chết là cách tốt nhất để Mị giải thoát cuộc đời nô lệ, Mị sẽ không phải xót xa hay căm hờn gì nữa.

Từ thái độ phản kháng, Mị trở nên cam chịu hoàn cảnh. Mị đã quen với cái khổ, “Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa” quần quật làm việc cả ngày lẫn đêm không được nghỉ ngơi. Những công việc hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, bẻ bắp, quay sợi, dệt vải, chẻ củi, cõng nước,…cứ nối tiếp nhau “vẽ ra trước mặt” thúc giục cô phải làm. Phải chăng vì thế mà “mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Càng ngày, Mị càng câm lặng, chấp nhận số phận mà không một lời oán trách. Khuôn mặt cô dù trong hoàn cảnh nào cũng “buồn rười rượi”. Người phụ nữ ấy đã bị những khổ cực làm chai lì cảm xúc, mất hết ý niệm về thời gian, không gian vì buồng Mị nằm có cái cửa sổ có một lỗ vuông bằng bàn tay, “lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”.
Tưởng rằng Mị đã vô cảm với thế giới bên ngoài nhưng chính thiên nhiên Tây Bắc vào mùa xuân mà âm thanh của tiếng sáo là tác nhân khơi dậy lòng yêu đời, sức sống trong con người Mị. Tiếng sáo đã đánh thức tâm hồn bấy lâu ngủ quên của cô. Mị cảm nhận được âm hưởng ‘thiết tha bổi hổi” của tiếng sáo gọi bạn đi chơi. Không khí của những ngày Tết khiến Mị “sống về những ngày trước”. Mị uống rượu, “uống ừng ực từng bát” như nuốt trôi đi tất cả niềm phẫn uất vào trong. Tâm hồn Mị “phơi phới trở lại”. Điều đặc biệt là Mị đã có ý thức về bản thân, cô nhận ra mình vẫn còn trẻ và muốn được đi chơi ngày Tết. Mong muốn đã chuyển sang thành hành động: “Mị lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng” rồi quấn lại tóc, “lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách” sửa soạn đi chơi. Tiếng sáo lửng lơ, mời gọi khiến Mị không thể chối từ. Cô đã thực sự hồi sinh và lột xác để thoát ra khỏi vòng áp chế của các thế lực cường quyền, thần quyền, phu quyền. Nhưng ý định của Mị chưa thực hiện được thì cô đã bị A Sử trói đứng vào cột nhà bằng cả thúng sợi đay. Dường như Mị đã quên đi nỗi đau về thể xác để tâm hồn đi theo những cuộc chơi. Tiếng chân ngựa đạp vào vách đưa Mị trở về thực tại, “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Thân phận làm dâu gạt nợ nhà thống lí không khác gì thậm chí là không bằng thân phận của những con vật như con trâu, con ngựa.
Ẩn đằng sau con người cam chịu đó là một sức sống tiềm tàng đến mãnh liệt. Điều ấy được thể hiện qua chi tiết Mị cắt dây trói cho A Phủ và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài. Đây cũng là hành động cởi trói, tự giải thoát cho chính mình. Nó xuất phát từ tấm lòng “thương người như thể thương thân” của cô. Mị đã tự giải thoát cho mình khỏi sự áp bức, đè nén của cường quyền, thần quyền, phu quyền. Hành động tuy có tính tự phát nhưng vô cùng hợp lí.

Không chỉ khắc họa thân phận người phụ nữ, Tô Hoài còn khắc họa thân phận của người đàn ông miền núi chịu cuộc đời nô lệ. Đó là A Phủ, anh mồ côi cha mẹ từ khi còn nhỏ, không có người thân thích. Anh trở thành món hàng để đổi lấy thóc của người Thái nhưng “A Phủ gan bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp, A Phủ trốn lên núi, lưu lạc đến Hồng Ngài”. Tuy nghèo khó nhưng A Phủ biết lao động để tự nuôi sống bản thân. Anh biết “đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”. Vì thế nhiều cô gái đã ví có được A Phủ “cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”. Con người A phủ có sự gan góc, biết vượt qua khó khăn, khổ cực và nguy hiểm. Anh sống tự do, gần gũi với thiên nhiên nhưng vì tội đánh con thống lí mà phải chịu thân phận nô lệ.

A Phủ đánh A Sử không phải do tính cách hiếu chiến, ngang tàn mà là do anh không chấp nhận sự thống trị, lên ngôi của cái ác. Sự áp chế của cường quyền đã đẩy một con người tự do, phóng khoáng trở thành một con người cam chịu số phận. A Phủ phải chịu những trận đòn roi tàn nhẫn nhưng anh “chỉ im như cái tượng đá”. Anh đã chấp nhận cuộc đời đi ở trừ nợ cho nhà thống lí. Vì mải mê bẫy chim mà A Phủ để hổ bắt mất một con bò. A Phủ bị trói đứng vào cột bằng “dây mây quấn từ chân đến vai”. Tình cảnh này đã lay động được tình thương, lòng đồng cảm của Mị. Cô nghĩ rằng: “Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết” và Mị đã cắt dây trói cứu A Phủ. Hành động “quật sức vùng lên chạy” phần nào cho thấy khát vọng sống, khát vọng chấm dứt thân phận đi ở trừ nợ của anh. Anh đã thức tỉnh để đến với khu du kích Phiềng Sa, tham gia vào cách mạng.

Truyện “Vợ chồng A Phủ” chứa đựng những giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo cao cả.Thông qua tác phẩm, nhà văn Tô Hoài muốn tố cáo chế độ phong kiến và giai cấp thống trị bóc lột con người bằng hình thức cho vay nặng lãi. Vì món nợ của cha mẹ mà Mị bị mang ra làm vật thế mạng. Ông cũng lên án những hủ tục lạc hậu như “cúng trình ma” đã buộc con người vào vòng mê tín, khiến họ không dám thoát ra vòng vây để tự cứu lấy mình. Đồng thời, tác giả cũng thể hiện lòng xót xa, cảm thông với những người dân lao động miền núi phải cam chịu sự áp bức của tầng lớp thống trị thủ đoạn, gian ác. Tô Hoài ca ngợi sức sống mãnh liệt tiềm tàng trong con người họ. Chính sức sống ấy đã giúp họ giải thoát họ khỏi cuộc đời nô lệ để đến với cách mạng, đến với cuộc sống tự do.

Bằng bút pháp cá thể hóa, nhà văn đã xây dựng nên hai nhân vật đại diện cho những con người có phẩm chất tốt đẹp nhưng phải chịu số phận bất hạnh, đau khổ. Mị tiêu biểu cho kiểu nhân vật tâm trạng và A Phủ tiêu biểu cho kiểu nhân vật hành động. Làm nền cho sự nổi bật của con người trong thiên truyện là bức tranh thiên nhiên Tây Bắc tuyệt đẹp: “gió thổi vào gianh vàng ửng”, “trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ”. Đây là những chi tiết nghệ thuật giàu tính tạo hình. Cùng với đó là các phong tục, tập quán như tục bắt vợ, cảnh phạt vạ, cảnh xử kiện được hiện lên độc đáo. Truyện được kể theo ngôi thứ ba, điểm nhìn trần thuật có sự thay đổi từ điểm nhìn của người đi xa về đến điểm nhìn của người trong cuộc nên vừa mang tính khách quan lại vừa chứa chan sự cảm thông với nhân vật. Ngoài ra, Tô Hoài còn xây dựng những chi tiết giàu sức gợi và ý nghĩa như chi tiết tiếng sáo, tiếng chân ngựa đạp vào vách,… Ngôn ngữ văn xuôi đậm chất thơ cũng là một yếu tố quan trọng tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm.

Với tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã mang đến cho bạn đọc cái nhìn bao quát, toàn diện về bức tranh cuộc sống của người dân Tây Bắc. Trang sách đã khép lại nhưng dư âm của nó thì còn vang mãi. Và tuy Tô Hoài đã ra đi nhưng những tác phẩm của ông vẫn vẹn nguyên giá trị trong lòng bạn đọc hôm nay và cả mai sau.

Phân tích vợ chồng A Phủ mẫu 6

Tô Hoài là một tác giả tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại, ông để lại nhiều tác phẩm có giá trị như: Dế Mèn phiêu lưu ký, Giăng Thề, Quê nghèo,…Tập truyện Tây Bắc cũng là một trong những thành tựu vô cùng xuất sắc, một lần nữa khẳng định tên tuổi của ông trên văn đàn. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” trích trong tập “Truyện Tây Bắc” đã để lại cho người đọc nhiều ấn tượng với giá trị nhân văn sâu sắc.

Truyện kể về cuộc sống của nhân vật Mị, một cô gái vùng núi Tây Bắc. Mị vốn là một người con gái xinh đẹp, có tài thổi sáo, lại là người con hiếu thảo, biết chăm lo giúp đỡ gia đình. Nhưng số phận trớ trêu khi Mị buộc phải chấp nhận bán mình làm con dâu nhà thống lý để trả món nợ truyền kiếp của gia đình. Có lẽ, trong xã hội lúc bấy giờ, có vô số người đang phải chịu cảnh trái ngang như Mị vậy, bởi hình thức cho vay nặng lãi của bọn người như Pá Tra mà họ phải dùng cả cuộc đời, thậm chí đánh đổi tương lai và hạnh phúc của bản thân để trả.

Ngày về làm dâu, Mị mất hết quyền tự do, bao nỗi uất ức, đau khổ đều mình nàng gánh chịu. Đau đớn thay cho phận đàn bà, phận con nợ hẩm hiu với cuộc sống lầm lũi, trước kia Mị trẻ đẹp yêu đời bao nhiêu thì giờ đây càng tồi tệ, thê thảm bấy nhiêu: “Có đến mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”, có lúc Mị chỉ muốn dùng nắm lá ngón mà tự tử, kết thúc cuộc đời khổ nhục, nhưng vì nghĩ đến bố, nàng đành ngậm ngùi cam chịu. Tình thân chính là thứ duy nhất khiến Mị cố gắng để chịu đựng, bởi hơi ai hết, Mị hiểu cha nàng đã khổ quá nhiều rồi. Những vất vả, công việc nặng nhọc nơi nhà thống lý đều một tay Mị làm, con dâu mà không khác con ở là bao.

Lâu dần, Mị quen với cái khổ, rồi cũng chẳng màng gì nữa, cứ thế lầm lũi qua ngày: “Mị quên với cái khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình là con trâu, con ngựa… chỉ biết việc ăn cỏ, việc đi làm mà thôi”. Bao công việc giặt đay, bẻ bắp, hái thuốc phiện,..Mị đều làm mà không một lời than vãn, mà có than vãn cũng chẳng ai quan tâm đến.

Đau khổ về thể xác, tinh thần cũng bí bách khôn nguôi, có điều gì buồn hơn khi lấy chồng mà người bên cạnh không phải người mình thương, đến sự sẻ chia, lời ủi ăn cũng chẳng có, lấy gì làm người bạn tâm tình những lúc chán nản, mệt nhoài: “Mỗi ngày Mị càng không nói….rùa nuôi trong xó cửa”. Thật đau đớn thay cho những kiếp người nghèo khổ, chịu bao bất công, bao nỗi tuyệt vọng ngập tràn. Dường như, lúc này đây, Mị đang phó mặc cho số phận mình vậy. Đọc những dòng miêu tả Mị lúc này, ta thấy xót thương, đồng cảm và căm phẫn thật nhiều. Xót thương cho cuộc đời nàng, căm phẫn với cái chế độ tàn nhẫn bất công của xã hội của đã đẩy con người đến đường cùng tăm tối.
Tuy sống cam chịu, lầm lũi nhưng bên trong Mị vẫn âm ỉ một sức sống mãnh liệt chỉ chực chờ để bụng toả. Khi xưa Mị là cô gái trẻ yêu đời, khao khát tự do, có niềm tin yêu cuộc sống. Sức trẻ, khát vọng hạnh phúc ấy không lụi tắt mà chỉ bị kìm xuống bởi những bất công, bạo tàn. Để rồi vào đêm tình mùa xuân, khi khắp vùng trời tây bắc đang chào đón mùa xuân tới cùng tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha, lòng Mị lại bồi hồi rạo rực với những kỉ niệm xưa: “Ngoài đầu núi lấp ló có tiếng ai thổi sáo gọi bạn đi chơi. Nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bồi hồi”. Tiếng sáo đã thôi thúc Mị tiếp tục đứng lên, tiếp tục sống, thôi thúc bao nỗi khát khao trong lòng nàng. Mị tìm đến men rượu, hơi rượu đã đưa Mị về với những kí ức xưa “Mị thấy phơi phới trở lại”. Rồi Mị tìm đến nơi góc nhà, lấy ống mỡ bỏ vào đèn thắp lên thứ ánh sáng le lói, thứ ánh sáng của niềm tin nơi tăm tối, ngục tù.

Nhưng rồi, thật tàn nhẫn, tên A Sử tàn ác kia đã đứng trước mặt Mị, hắn không cho nàng đi chơi, hắn trói nàng vào cột nhà bằng những sợi đay rừng. Chính hắn đã dùng bàn tay tàn ác kia trói buộc cuộc đời nàng, giờ đây đến cả điều ước đơn giản muốn được đi chơi xuân cũng bị hắn vùi dập. Lúc này đây là nỗi đau thể xác đang hành hạ nàng nhưng lòng Mị vẫn đang mê say với tiếng sáo tha thiết kia. Có những phút Mị vùng bước đi nhưng không thể làm gì khác, thực tại quá phũ phàng đã bóp nghẹt một lần nữa khát vọng cuộc đời nàng.

Sau đêm mùa xuân ấy, Mị quay trở lại với cuộc sống của “con trâu con ngựa”, lầm lũi cam chịu. Khi nhìn thấy A Phủ bị trói đứa đứng ngoài sân, Mị cũng dửng dưng vô cảm bởi lẽ cảnh người bị trói, bị hành hạ nhà thống lí đã quá quen thuộc trong nhận thức của Mị. Tỉnh dậy trong ánh lửa bập bùng, Mị thấy dòng nước mắt đang rơi dài trên má A Phủ. Giọt nước mắt ấy khiến Mị nhớ lại ngày trước, nàng cũng từng phải chịu nỗi hành hạ, đớn đau biết bao nhiêu rồi nàng nhớ đến chuyện người đàn bà xưa kia bị trói chết đứng trong nhà, rồi nàng lo sợ rằng có lẽ đêm nay, đêm mai nữa thì người kia cũng sẽ phải chịu chết thôi. Mị chìm vào suy nghĩ, sự đấu tranh nội tâm đưa Mị đi đến hành động quyết liệt là cắt dây trói cho A Phủ. Dù biết đây là hành động có thể khiến bản thân bị trọng tội, song Mị đã chấp nhận hi sinh chính mình để cứu lấy con người tội nghiệp kia. Đây là một hành động thể hiện sự phản kháng mạnh mẽ của con người trước tội ác, bất công đồng thời thấy được tình thương yêu giữa những người nghèo khổ dành cho nhau. Cũng vào lúc ấy, Mị đã quyết định đi theo A Phủ, đó là một sự lựa chọn đúng đắn để Mị giải thoát cho cuộc đời mình.

Đọc Vợ chồng A Phủ, ta mới thấy được tài năng của Tô Hoài trong việc khắc hoạ tâm lí nhân vật. Mỗi hành động, mỗi cử chỉ đều gắn với những tính cách, những chuyển biến tâm lí đầy tinh vi của nhân vật được thể hiện rõ nét. Truyện đã vạch trần được những tội ác, sự bất công ngang trái của xã hội xưa, nói lên tiếng nói thương cảm của nhà văn với những người dân miền núi chịu nhiều khổ cực. Ngoài ra, Tô Hoài còn đưa đến một thông điệp về giá trị sống: Trong cực khổ, bần hàn vẫn cần cố gắng, sống và quyết tâm vươn tới những chân trời tự do, tin tưởng ở tương lai tươi đẹp.

Phân tích vợ chồng A Phủ mẫu 7

“Vợ chồng A phủ” là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Tô Hoài. Truyện ngắn là kết quả của 8 tháng tham gia chiến dịch Tây Bắc, sống và gắn bó nghĩa tình với đồng bào dân tộc của nhà văn. Có thể nói, “Vợ chồng A Phủ” là bức tranh chân thực về cuộc sống sinh hoạt của người dân lao động vùng núi cao dưới ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân phong kiến miền núi.

Về nội dung, “Vợ chồng A Phủ” chính là lời tố cáo đanh thép chế độ thực dân nửa phong kiến. Truyện đã phản ánh chân thực mâu thuẫn giai cấp căng thẳng và cuộc sống tăm tối của nhân dân lao động nghèo ở miền núi Tây Bắc. Tác phẩm mở đầu bằng lời kể về hoàn cảnh nhân vật Mị: “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa .

Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Vẻ âm thầm, buồn bã cùng công việc vất vả của Mị hoàn toàn đối lập với sự giàu sang, tấp nập của gia đình nhà thống lý. Bằng cách mở đầu đầy nghịch lí như vậy, Tô Hoài gợi được sự tò mò nơi độc giả đồng thời cũng hé mở số phận đau khổ của Mị trong nhà chồng.

Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị là một cô gái H’mông xinh đẹp, tài hoa, hiếu thảo. Tiếng sáo của Mị khiến trai bản “đứng nhẵn cả chân vách buồng”. Nhưng, chỉ vì nghèo, không trả nổi tiền cho nhà thống lí nên Mị đã bị bắt về làm dâu gạt nợ. Từ đây, bao nhiêu hi vọng về hạnh phúc, về tương lai của cô như vụt tắt. Là con nợ, trả nợ xong là thôi nhưng đằng này Mị còn là một cô con dâu. Một cổ 2 gông, tất cả đã đẩy cuộc đời Mị vào vòng tuần hoàn của khổ đau.

Khi mới bị bắt, đêm nào Mị cũng khóc, có lần cô trốn về nhà định ăn lá ngón tự tử. Qua nhưng chi tiết này, ta thấy được tinh thần phản kháng quyết liệt, không chấp nhận số phận của Mị. Quyết định tìm đến cái chết của cô không phải là biểu hiện của sự đầu hàng, buông xuôi. Đó là tiếng nói phản kháng đầy mạnh mẽ của một con người luôn khát khao tự do, khát khao hạnh phúc.

Đối với Mị, làm dâu nhà thống lí Pá Tra còn đáng sợ hơn cái chết, bởi vì ở đó, cô không được đối xử như một con người, không được lên tiếng quyết định cuộc đời mình, không có tự do cũng như hạnh phúc. Nhưng vì cha, Mị lại chấp nhận tiếp tục sống và chịu đựng: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa…”.

Từ một người con gái đầy sức sống, Mị giờ đây “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Hình ảnh căn buồng Mị nằm với chiếc “cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng” như một nhà giam không những giam hãm thân xác mà còn vây khốn tâm hồn Mị. Đó cũng là hiện thực đầy tàn khốc của những người dân nghèo dưới ách thống trị của bọn địa chủ phong kiến. Họ không chỉ bị tước đoạt tự do thân thể, mà tinh thần họ cũng vướng phải gông xiềng của lề thói, hủ tục.

Giữa bức tranh tăm tối ấy, đêm tình mùa xuân cùng tiếng sáo gọi bạn réo rắt như thổi một làn gió mới làm bùng lên ngọn lửa yêu thương, khát vọng sống tiềm tàng ngỡ đã vụt tắt. Tiếng sáo được Tô Hoài miêu tả nhiều lần với nhiều tầng bậc khác nhau: “Ngoài đầu núi…thổi”, “Tai Mị… gọi bạn”, “Trong đầu… sáo”, “Tiếng sáo… chơi”. Tiếng sáo gợi nhớ về kỉ niệm, tiếng sáo thôi thúc Mị tìm đến niềm hạnh phúc yêu thương.

Thế nhưng, A Sử xuất hiện và giết chết khát vọng sống trong Mị, hắn “lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa”. Sự lạnh lùng, tàn ác của A Sử đối với Mị không phải là một trường hợp cá biệt, trước đó, có người đàn bà cũng đã bị trói đến chết trong nhà này. Đến đây, bức tranh về tội ác dã man của bọn địa chủ phong kiến được hiện lên rõ nét. Đối với chúng, mạng sống con người chẳng khác gì con trâu, con ngựa.

Bên cạnh hình tượng nhân vật Mị là A Phủ, một thanh niên mồ côi cha mẹ từ nhỏ, lao động giỏi “chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người mê”. Vì đánh con quan, A Phủ bị phạt vạ và từ đó trở thành nô lệ cho nhà thống lí. Có thể thấy, dù là một chàng trai gan góc, mạnh mẽ, nhưng cuối cùng, A Phủ cũng như Mị, không thể thoát khỏi bàn tay tội ác của bọn địa chủ phong kiến, ở đây đại diện là nhà thống lí Pá Tra.

Ở trong nhà thống lí Pá Tra, sinh mạng người dân nghèo không bằng cả súc vật. Chỉ vì làm mất bò, A Phủ bị trói đứng giữa trời đông lạnh lẽo. Và giọt nước mắt của anh là giọt nước mắt của sự đắng cay, sự cô độc, bất lực và tuyệt vọng. Đây là chi tiết vô cùng đắt giá. Giọt nước mắt ấy thể hiện tâm trạng tuyệt vọng của A Phủ đồng thời nó cũng làm dậy lên niềm đồng cảm, xót thương và sức sống ngỡ đã chai sạn trong Mị.

Tình cảnh của A Phủ làm Mị nhớ lại đêm mùa xuân mà cô bị A Sử trói nơi cột nhà. Cô chợt cảm thấy xót thương cho chàng trai tội nghiệp kia, xót thương cho tình cảnh của chính mình. Dòng nước mắt của A phủ như thổi bùng khát vọng sống trong Mị mà lâu nay bị lớp tro tàn phong kiến phủ kín. Hành động Mị cắt dây trói cứu thoát A Phủ và chạy khỏi nhà thống lí Pá Tra là sự trỗi dậy của sức sống tiềm tàng, khao khát tự do hạnh phúc của con người bị áp bức

Có thể nói, bằng tài năng tuyệt vời của mình, Tô Hoài đã xây dựng nên những hình tượng nhân vật vô cùng chân thực và sống động. Nếu Mị là hình tượng tiêu biểu cho phụ nữ miền núi nước ta trong thời kì trước Cách mạng đến những năm kháng chiến chống Pháp thì A Phủ mang nét đẹp tiêu biểu cho những thanh niên dân tộc miền núi Tây Bắc: thật thà, chất phát, khoẻ mạnh tuy bị đẩy vào số phận khổ đau nhưng không nguôi khát vọng tự do.

Bên cạnh bức tranh hiện thực về tội ác của giai cấp thống trị cùng cuộc sống tăm tối của nhân dân, tác phẩm còn là một bài ca về tình người, bài ca về khát vọng sống, khát vọng tự do. Hành động cắt đứt dây trói, bước chân gấp gáp chạy khỏi nhà thống lí và đứng dưới là cờ Cách mạng của Mị và A Phủ chính là sự vùng lên tất yếu của những con người không đầu hàng số phận. Tác giả bày tỏ sự đồng cảm, xót thương nhưng cũng đầy tự hào, ngợi ca khi viết về họ và cuộc đời của họ. Đó cũng chính là giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm này,

Về nghệ thuật, tác phẩm cho thấy tài năng trong việc dẫn chuyện và miêu tả tâm lí nhân vật của Tô Hoài. Đặc biệt, dưới ngòi bút miêu tả bậc thầy, Tô Hoài cũng đã phác họa cho người đọc một cuộc xử kiện sống động và giàu sức tố cáo, từ đó vạch trần sự áp bức dã man của bọn thống trị miền núi. Qua giọng kể khi thì khách quan, khi thì nhập vào nhân vật, cùng ngôn ngữ sinh động, chọn lọc, có sáng tạo, bức tranh về thiên nhiên và cuộc sống sinh hoạt của người dân Tây Bắc đã được hiện lên vô cùng chân thật và xúc động.

Tóm lại, có thể khẳng định, “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm mẫu mực nhất khi viết về thiên nhiên và con người miền núi. Qua “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã khẳng định tên tuổi của mình trong văn đàn đồng thời ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc bao thế hệ.

Phân tích vợ chồng A Phủ mẫu 8

Với vốn hiểu biết phong phú về phong tục, tập quán của người dân miền núi cùng lối trần thuật hóm hỉnh, sâu sắc, chân thực của người từng trải và sự giàu có trong vốn từ vựng, những sáng tác của Tô Hoài luôn để lại dấu ấn đậm sâu và sức sống lâu bền trong lòng bạn đọc. Và có thể nói truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” sáng tác năm 1952, in trong tập Truyện Tây Bắc là một trong số những sáng tác tiêu biểu của Tô Hoài.

Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” đã dựng lại một cách chân thực, sâu sắc bức tranh số phận, cuộc đời của hai nhân vật Mị và A Phủ.

Ngay từ những dòng đầu của tác phẩm, Tô Hoài đã khéo léo để nhân vật Mị xuất hiện một cách thật tự nhiên nhưng đã để lại ấn tượng đậm sâu trong lòng bạn đọc. “Ai đi xa về, có việc ghé qua nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”. Thêm vào đó tác giả đã tạo ra một hoàn cảnh đối lập giữa nét mặt “lúc nào cũng buồn rười rượi của Mị” với sự giàu có, sung túc của nhà thống lí. Với tình huống đối nghịch ấy tác giả đã phần nào hé mở cho người đọc về cuộc đời của Mị trong những tháng ngày làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra.

Trước khi trở thành con dâu gạt nợ của nhà thống lí Pá Tra, Mị là cô gái Mèo xinh đẹp, trẻ trung, hiếu thảo và có tài thổi sáo. Chắc hẳn, những ai đã từng một lần đọc Vợ chồng A Phủ sẽ chẳng thể nào quên được những câu văn tác giả miêu tả vẻ đẹp ngoại hình và tài năng của Mị. Mị đẹp đến nỗi “trai làng đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị” rồi “có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Không chỉ xinh đẹp mà Mị còn có tài “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo vậy”. Đặc biệt, ở Mị chúng ta còn nhận thấy vẻ đẹp trong tận sâu tâm hồn, tấm lòng của Mị. Mị là một cô gái hồn nhiên, yêu đời và có lòng hiếu thảo với cha. Lời nói của Mị với bố“con phải làm nương giả nợ thay cho bố” đã thể hiện rõ tấm lòng hiếu thảo của Mị. Như vậy, Mị là một cô gái vừa đẹp người vừa đẹp nết vừa tài năng, những tưởng một cô gái như thế sẽ có được hạnh phúc. Song với Mị thì hoàn toàn ngược lại khi Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra.

Mị là nạn nhân của chế độ cho vay nặng lãi, trở thành “con dâu gạt nợ” nhà thống lí Pá Tra vì món nợ truyền kiếp của gia đình từ hàng mấy năm nay. Mị trả món nợ của gia đình bằng chính tuổi trẻ, sức khỏe và hạnh phúc của bản thân mình. Trở thành con dâu gạt nợ cũng chính là lúc Mị trở thành công cụ lao động của nhà thống lí Pá Tra. Mị như một cỗ máy, làm việc quần quật suốt ngày suốt đêm, từ ngày này đến ngày khác, năm này qua năm khác “Mị như một cỗ máy làm việc suốt ngày, suốt tháng, suốt năm”, “Mị tưởng mình là con trâu con ngựa. Mị nghĩ mình cũng không bằng con trâu, con ngựa…”. Thêm vào đó, Mị còn bị còn bị A Sử đánh đập tàn nhẫn, thô bạo. Có lẽ, đọc toàn bộ tác phẩm người đọc sẽ không thể nào có thể quên được những trận đòn roi đến rợn người mà Mị đã phải gánh chịu. Không chỉ bị bóc lột về mặt thể xác, Mị còn bị hành hạ về mặt tinh thần. Sống trong nhà Pá Tra, Mị “sống lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, Mị tị tê liệt về mặt tinh thần, sống vô cảm và lặng lẽ. Dường như giờ đây Mị đã bị tê liệt hoàn toàn về mặt tinh thần, sống không chút hi vọng, không mảy may sức sống.

Nhưng rồi, trong những ngày Tết đến ở Hồng Ngài, trong đêm tình mùa xuân ấy, sức sống trong Mị đã lần nữa trỗi dậy mạnh mẽ trong cô. Hồng Ngài những ngày Tết đến, xuân về thật đẹp và đặc biệt là âm thanh tiếng sáo gọi bạn đi chơi trong đêm tình mùa xuân mới thật tuyệt biết bao. Tiếng sáo ấy là âm thanh đặc trưng nơi núi rừng Tây Bắc vào mùa xuân, nó là tiếng gọi của tình yêu, tiếng gọi của hạnh phúc và để rồi, tiếng sáo dìu dặt, thiết tha ấy đã thấu rọi, xuyên qua tâm hồn vốn đã bị đóng băng bấy lâu nay ở Mị để đồng vọng với khát vọng tình yêu, khát vọng sống đang trỗi dậy trong cô. Mị đã có những hành động đầu tiên, báo hiệu cho sự trỗi dậy của sức sống trong Mị. Nếu như trước đây, Mị “sống lùi lũi như con rùa trong xó cửa” thì hôm nay, Mị đã nhẩm thầm lời bài hát, “những lời thì thầm ấy như những lời thì thầm của mùa xuân”, nó chính là động lực, là nguồn cội để rồi cuộc đời Mị từ đây bước sang một trang mới. Rồi Mị uống rượu – “uống ừng ực từng bát” – dường như Mị muốn uống để quên đi hết bao sầu muộn, bao giận dữ, khổ đau trong những tháng ngày đã qua. Những ý niệm về thời gian dần dần sống lại trong Mị, cô nhớ về những kỉ niệm thời trẻ và sống với hiện tại của chính mình. “Mị thấy mình phơi phới trở lại, Mị vẫn còn trẻ lắm”, Mị muốn được đi chơi mùa xuân. Như vậy, đến đây, sức sống, khát khao sống trong Mị đã trỗi dậy nhưng rồi sự xuất hiện của A Sử đã buộc Mị không thể thực hiện khát khao đi chơi trong đêm tình mùa xuân của mình. A Sử trói đứng Mị, đánh đập Mị song A Sử chỉ trói được thể xác của Mị chứ không thể nào trói buộc được tâm hồn, khao khát của cô. Dường như, Mị đã quên mất việc mình bị trói đứng, quên đi nỗi đau về mặt thể xác để tâm hồn Mị vẫn hòa cùng với tiếng sáo của những cuộc chơi. Như vậy, sức sống mãnh liệt trong Mị đã trỗi dậy, vượt qua cả nỗi đau về mặt thể xác.

Đặc biệt, sự hồi sinh của Mị thể hiện rõ nét qua việc Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ. Thoạt đầu, khi nhìn thấy A Phủ bị trói đứng, Mị vẫn thản nhiên ngồi sưởi tay bên bếp lửa. Mị thản nhiên, dửng dưng cũng đúng thôi bởi với Mị nói riêng và với những người trong nhà thống lí Pá Tra nói chung, việc một con người bị trói đứng đâu có gì là lạ, là khác thường đâu. Nhưng rồi, Mị đã hoàn toàn thay đổi khi nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ, giọt nước mắt ấy đã một lần nữa đánh thức sức sống trong Mị, đánh thức tình thương người và thương mình ở cô. Để rồi, Mị nảy ra ý định cứu A Phủ, nhưng rồi Mị lại thấy sợ. Tuy nhiên, lòng thương người, thương mình và khát khao sống trong Mị đã lớn hơn tất cả, chiến thắng mọi nỗi sợ hãi để Mị đi đến quyết định cắt dây cởi trói cho A Phủ rồi Mị cùng A Phủ chạy trốn khỏi Hồng Ngài. Hành động ấy của Mị đã chứng minh quá trình hồi sinh của Mị, Mị đã trở lại là chính mình với một khát vọng sống mãnh liệt.

Cùng với Mị, trong tác phẩm, Tô Hoài đã xây dựng thành công số phận nhân vật A Phủ. Từ nhỏ, A Phủ đã mồ côi cha mẹ, sống và lớn lên trong tình yêu thương, sự che chở, đùm bọc của dân làng. Lớn lên, A Phủ trở thành chàng trai khỏe mạnh “A Phủ khỏe, chạy nhanh như con ngựa, con gái trong làng nhiều người mê”. Không chỉ khỏe mạnh mà A Phủ còn là người nhanh nhẹn, việc gì cũng biết làm, lúc còn bé, đi làm cho nhà người, chẳng mấy chốc mà A Phủ “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”, rồi đến lúc phải đi ở cho nhà Pá Tra, A Phủ càng chứng tỏ được sức lực của mình “đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò nương gò rừng”. Đồng thời, A Phủ là người có tính cách gan bướng, mạnh mẽ, bị bắt xuống đồng thấp lại trốn lên đồng cao.

Số phận của A Phủ cũng giống như Mị, đều phải trở thành người ở gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. A Phủ trở thành người ở để gạt nợ chỉ vì A Phủ đánh con quan và thua trong một vụ kiện đầy bất công, vô lí. Thêm vào đó, khi trở thành người ở gạt nợ, A Phủ còn không có giá trị bằng một con bò, chỉ vì làm mất một con bò của nhà thống lí mà A Phủ bị trói đứng, bị hành hạ về mặt thể xác. Và rồi, trong chính lần bị trói đứng ấy, A Phủ đã gặp Mị và được Mị cắt dây cởi trói rồi cả hai cùng nhau chạy trốn khỏi Hồng Ngài.

Tóm lại, với ngòi bút trần thuật hấp dẫn, độc đáo, vốn từ vựng phong phú và sắc sảo, Vợ chồng A Phủ đã dựng lại một cách chân thực và sâu sắc số phận của hai nhân vật Mị và A Phủ. Đồng thời, qua số phận hai nhân vật cũng cho chúng ta thấy rõ giá trị hiện thực của tác phẩm về cuộc sống và số phận bi đát của những người lao động miền núi và về bộ mặt tàn ác của giai cấp thống trị. Thêm vào đó nó cũng cho ta thấy chiều sâu nhân đạo của tác phẩm, đó chính là lời ngợi ca, trận trọng những giá trị, khát vọng sống tốt đẹp của con người và lời lên án, tố cáo sự tàn ác, vô nhân tính của giai cấp thống trị.

Phân tích vợ chồng A Phủ mẫu 9

Tô Hoài là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn học hiện đại Việt Nam đồng thời là một tấm gương cho con người về sức sáng tạo. Cách kể chuyện của Tô Hoài có sức hấp dẫn riêng ở lối kể hóm hỉnh với lời văn giản dị tinh tế mà giàu chất thơ. Trong đó, “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm ghi lại tên tuổi cũng như dấu ấn văn xuôi của nhà văn Tô Hoài.

“Vợ chồng A Phủ’’ được rút ra trong tập “Tây Bắc” kể về cuộc sống của Mị và A Phủ trong nhà thống lý Pá Tra làm nô lệ. Mị trở thành dâu nhà thống lý, phải sống một cuộc sống không giống con người. Ở đó, Mị không chỉ bị giam cầm về thể xác mà còn bị giam cầm cả về tâm hồn của mình. Mị xuất hiện trong lời kể của nhà văn Tô Hoài trong khung cảnh của cuộc sống giàu sang nhưng lại đối lập với tâm thế bên trong con người Mị là mặt buồn rười rượi. Dưới ngòi bút của Tô Hoài gieo vào lòng người đọc những cảm xúc mãnh liệt về số phận con người mà cụ thể là nhân vật Mị. Sự xuất hiện của Mị giúp người đọc hình dung ra số phận của những kiếp người lao động dưới ách thống trị của bọn phong kiến chúa đất.

Bằng kết cấu hồi tưởng, trần thuật ở hiện tại sau đó ngược về quá khứ Tô Hoài tạo được những dấu ấn cá nhân riêng qua cách kể chuyện đầy linh hoạt của mình. Trước khi về làm dâu nhà thống lý Pá Tra Mị là một cô gái xinh đẹp, nết na, có tài thổi sáo. Đặc biệt, Mị còn là cô gái rất giàu lòng tự trọng yêu đời và tràn đầy sự sống, luôn muốn làm chủ và muốn tự định đoạt cuộc đời của mình. Mị trở thành nỗi niềm ao ước của nhiều trai bản trong làng. Thế nhưng cuộc đời lại xô đẩy Mị, trái lại với tất cả những gì mà cô mong muốn. Chỉ vì muốn giúp cha mẹ trả món nợ truyền kiếp mà Mị bỗng dưng trở thành dâu nhà họ Lý kia. Bị ràng buộc về món nợ Mị còn bị ràng buộc cả về những tập tục hôn nhân cổ hủ. Chồng chất những đau khổ cho cô gái trước đây từng ao ước có một cuộc sống do mình định đoạt. Chỉ đến đây thôi người ta đã nhìn thấy cái xã hội mà bọn lang đạo, phong kiến chúa đất miền núi đã bóc lột sức lực, tước đi quyền tự do của biết bao nhiêu số phận người lao động nghèo. Ba tiếng “dâu gạt nợ” như hé mở cho người đọc một cuộc sống chồng chất những đau thương, những bi kịch mà Mị đang phải gánh chịu.

Khi sống cuộc sống làm dâu trong nhà thống Lý, Mị phải chịu những đau khổ về thể xác. Mị bị bóc lột sức lao động tàn nhẫn, Mị phải làm việc suốt ngày đêm, hết ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác. Mị bị cột chặt trong vòng vây của công việc. Dưới ngòi bút kể của nhà văn Tô Hoài, Mị hiện lên như một công cụ biết nói, một cỗ máy làm việc trong nhà thống Lý. Để rồi đã hơn một lần Mị thổn thức mình không bằng con trâu con ngựa. Cuộc sống của Mị không giống như cuộc sống của con người, Mị đang dần bị vật hóa. Không chỉ vậy Mị còn bị A Sử – chồng của mình đánh đập, hành hạ một cách vô lý. Đỉnh điểm trong đêm tình mùa xuân khi Mị muốn đi chơi nhưng lại bị A Sử trói đứng vào cột. Tô Hoài đứng dưới vị trí là một người ngoài cuộc như quay lại những thước phim mà ông ti mỉ thu được. Tô Hoài miêu tả tỉ mỉ những hành động tàn nhẫn của A Sử lại càng lột tả hết được bản chất tàn bạo, phi nhân tính của giai cấp thống trị mà A Sử là một đại diện tiêu biểu hơn bao giờ hết. Do vậy, qua đây mà ngòi bút của Tô Hoài có sức tố cáo gay gắt. Thêm nữa, cuộc sống của Mị còn bị trói buộc và đày đọa cả về mặt tinh thần. Mị bị ngăn cách với thế giới bên ngoài, mất đi ý niệm về thời gian, bị tước đi tất cả quyền làm người, quyền được sống, được giao tiếp với bên ngoài. Mị đã hoàn toàn bị vật hóa, bị khống chế bởi thế lực và sức mạnh của thần quyền. Đến đây thôi, hình ảnh Mị hiện lên chồng chất những đau thương và bi kịch mà qua đó Mị là một hiện thân cho người phụ nữ miền núi, người dân lao động dưới ách thống trị của bọn lãnh chúa.

Tiếp đến trong đêm tình mùa xuân cũng là thời khắc sức sống tiềm tàng trong Mị trỗi dậy. Âm thanh tiếng sáo gọi dậy khát khao yêu đương trong Mị bấy lâu. Nó gọi dậy tiếng lòng, tiếng hát từ trong sâu thẳm Mị. Để rồi cũng gọi dậy khát khao yêu đương, hạnh phúc, tuổi trẻ và đánh thức quyền sống con người bên trong Mị. Tô Hoài đã sử dụng nghệ thuật độc thoại nội tâm, lách sâu ngòi bút của mình vào đời sống tâm hồn miêu tả Mị. Nhà văn miêu tả chi tiết từng hành động “uống từng ngụm rượu” cho đến sự thay đổi trong tâm trạng của Mị để thấy rằng con người kia đang muốn làm chủ số phận của mình, muốn vượt lên số phận của chính mình.

Sau đêm tình mùa xuân nổi loạn không thành, Mị tiếp tục trở về câm lặng như xưa, tiếp tục công việc khổ sai làm tê liệt ý thức của con người, đánh đập, hành hạ làm tê liệt ý thức phẩm giá, cầm tù làm tê liệt những nhu cầu sống cơ bản của con người và bóng ma thần quyền đã tiêu diệt đi ý thức phản kháng của con người. Và chính điều đó lại là nghị lực cho Mị trong đêm đông cứu A Phủ, thoát khỏi cuộc sống mà Mị và A Phủ không được sống làm con người. Những thay đổi trong tính cách và tâm lý của Mị đều được nhà văn Tô Hoài làm rõ tạo nên những bất ngờ cho người đọc. Miêu tả sức sống tiềm tàng trong đoạn văn Mị cứu A Phủ cho thấy hiện thân của sức sống tiềm tàng của nhân dân lao động miền núi phía Bắc. Nhà văn không chỉ miêu tả đồng cảm số phận nhân vật mà còn như hé mở cho họ một lối giải thoát từ đau khổ, đáng thương đến tự do và làm chủ cuộc sống của mình. Qua đó, nhà văn ca ngợi sức mạnh của Đảng, cách mạng giúp con người được làm chủ cuộc sống của mình.

Phân tích vợ chồng A Phủ mẫu 10

Tô Hoài là một ngôi sao rất sáng trong nền văn học Việt Nam, ông sáng tác từ rất sớm và được dư luận chú ý ngay từ những tác phẩm đầu tay. Bằng sự hiểu biết sâu rộng nhiều lĩnh vực và vốn sống phong phú về phong tục, tập quán của nhiều dân tộc ở nhiều vùng miền khác nhau trên đất nước nên sáng tác của Tô Hoài thiên về diễn tả những tình cảnh của đời thường. Tác phẩm của Tô Hoài luôn hấp dẫn người đọc bởi lối kể chuyện hóm hỉnh, sinh động, bởi vốn từ vựng giàu có lạ thường. Năm 1996, Tô Hoài được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật.

Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ sáng tác năm 1952, in trong tập Truyện Tây Bắc (1953), được tặng giải Nhất – giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955. Đây là tác phẩm mang lại nhiều thành công cho nhà văn Tô Hoài, để lại nhiều ấn tượng rất lớn trong lòng bạn đọc. Tác phẩm đặc biệt lôi cuốn, hấp dẫn nhờ lời văn giản dị, mộc mạc, am hiểu văn hóa dân tộc, và điểm cốt lõi là nêu bật được giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Qua đó cũng nói lên quá trình đến với cách mạng, con đường mở ra tự do hạnh phúc của những số phận đau khổ.

Tác phẩm Vợ chồng A Phủ kể về hai cuộc đời, hai số phận đó là Mị và A Phủ. Mị – một cô gái xinh đẹp bị bắt về làm con dâu trừ nợ nhà Thống lý Pá tra, cuộc đời cô tăm tối và đau khổ từ đó. A Phủ vì dám đánh con quan A Sử khi A Sử phá cuộc chơi của đám trai làng trong ngày hội mùa xuân, từ đó A Phủ bị phạt vạ và phải làm đầy tớ không công nhà Thống lý. Hai cuộc đời đau khổ gặp nhau, trong đêm mùa đông lạnh giá Mị đã cắt dây cứu A Phủ bỏ trốn, tìm đến Phiềng Sa, họ thành vợ chồng và tìm đến với cách mạng. Câu chuyện thể hiện lên với đầy chân thực, mộc mạc nhưng cũng lồng ghép vào đó là tinh thần nhân đạo sâu sắc của tác giả gửi gắm.

Ngay đầu tác phẩm nhà văn Tô Hoài đã đưa một hình ảnh giản dị, chân thật nhưng lại có sức ám ảnh rất lớn đối với bạn đọc. Hình ảnh “ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”. Hình ảnh cô gái ấy là Mị, một cô gái hiền hậu, xinh đẹp, là vợ A Sử con trai Thống Lý Pá Tra. Cuộc đời Mị trải qua rất nhiều đau khổ khi phải sống tại ngôi nhà ấy, vô hồn trong bể khổ.

Cuộc đời Mị hiện lên dần dần qua những trang văn đầy hiện thực nhưng cũng đầy xúc cảm bằng ngòi bút tài hoa của tác giả. Mị là một cô gái xinh đẹp, khỏe mạnh,nhưng vì nhà nghèo cô đã bị bắt về nhà Thống Lý Pá Tra làm vợ A Sử, nói đúng nghĩa cô phải làm con dâu gạt nợ. Lúc đầu, bằng con mắt ngây thơ, trong sáng, bằng sự nhiệt tình của tuổi trẻ Mị đã khuyên cha, “con biết cuốc nương, làm ngô, con sẽ cuốc tương, làm ngô trả nợ thay cha, cha đừng bán con cho nhà Thống Lý”. Tuy nhiên, cái xã hội ngày ấy, đồng bào dân tộc ta bị áp bức bởi bọn chúa đất ức hiếp người dân vô tội, và cho vay nặng lãi chính là thủ đoạn đầy thâm độc, ép con người ta tới bước đường cùng. “Ông lão nhớ câu nói của thống lý đạo trước; cho con gái về nhà thống lý thì trừ được nợ. Thế là cha mẹ ăn bạc nhà giàu kiếp trước, bây giờ người ta bắt con trừ nợ. Không làm thế nào khác được rồi”. Mị bị bắt làm con dâu gạt nợ nhà Thống lý, thực sự khó thoát khỏi số kiếp đau khổ. Sự giằng buộc bởi sự thâm ác của chế độ cũ nhưng thêm vào đó cũng có một phần của hủ tục, phong tục xưa cũ còn lưu lại, Mị còn bị buộc chặt hơn với cái số phận con dâu trừ nợ vì “đã trình ma” ở nhà Thống Lý sống làm người của nhà Thống Lý chết cũng làm ma nhà Thống Lý Pá Tra.

Cuộc sống ấy đã khiến cô nghĩ đến cái chết “Một hôm, Mị trốn về nhà, hai tròng mắt còn đỏ hoe. Trông thấy bố, Mị quỳ, úp mặt xuống đất, nức nở. Bố Mị cũng khóc, đoán biết lòng con gái”.

“Mày về chào lạy tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn quan lại bắt trả nợ. Mày chết rồi, không lấy ai làm nương ngô, trả được nợ, tao thì ốm yếu quá rồi. Không được, con ơi!”. Sự thật vẫn mãi là sự thật, đã xảy ra thực sự khó mà thay đổi, Mị đau khổ tìm đến cái chết, một sự giải thoát đầy tiêu cực, bế tắc. Thế nhưng cuộc đời khéo đùa giỡn, Mị không thể chết, Mị thương cha mà không thể chết. Cha cô đã già, cô chết đi ông cũng sẽ đau lòng gấp bội, nhưng chết đâu phải đã hết, nợ vẫn còn đó, sự ác nghiệt vẫn còn đó, cái chết ấy đâu thay đổi được gì. Mị vứt nắm là ngón xuống đất, cô chỉ biết khóc, giọt nước mắt trong tuyệt vọng. Những chuỗi ngày đau khổ sẽ mãi kéo dài từ đó.

Từ đó trở đi, cuộc sống của Mị đều như người không hồn, lầm lũi, vất vả, nói là con dâu nhà nhiều đất, nhiều thuốc phiện nhất vùng nhưng Mị phải lao động như người hầu, không có thời gian nghỉ ngơi. Năm nào cũng vậy, làm những công việc giống nhau, “tước đay, bẻ bắp”, cứ lặp đi, lặp lại tẻ nhạt, mệt mỏi. Cuộc sống của cô gái xinh đẹp ngày nào giờ chỉ một màu u ám. Căn phòng của Mị không có đủ ánh sáng, nhìn ra cái ô cửa nhỏ “chỉ một màu mờ mờ trắng trắng không rõ”, đầy tù túng, vây hãm. Mị còn tự nhủ cuộc sống của mình còn không bằng con trâu, không bằng con ngựa.

Cuộc sống cứ trôi đi, trôi đi, các xác không hồn ấy phải trải qua những nỗi đau khó tả, nỗi đau thể xác khi phải làm việc như trâu ngựa, nhưng nỗi đau ấy đâu thể bằng nỗi đau trong tim, nỗi đau của người con gái mất đi hạnh phúc, mất đi hi vọng “Ở lâu trong cái khổ Mị đã quen khổ rồi”. Rồi đêm tình mùa xuân lại đến, mùa xuân, mùa của yêu thương, mùa của muôn hoa khoe sắc, trai gái hẹn hò. Tiếng sáo lay động lòng người.

“Mày có con trai con gái
Mày đi nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu”

Tiếng sáo gọi bạn tha thiết, khiến Mị nghĩ đến những ngày tháng đã qua, Mị thổi sáo rất hay, thổi lá cũng hay như thổi sáo, rồi chợt bừng lên bao suy nghĩ “Mị còn trẻ, Mị vẫn muốn đi chơi”. Đâu phải rằng ở lâu trong cái khổ mà con người mãi phải tăm tối. Mị cũng đã bùng lên một tia sáng nhỏ trong lòng, Mị như phơi phới trở lại, diễn biến tâm trạng nhân vật có sự thay đổi. Nhà văn Tô Hoài đã rất khéo léo đưa những chi tiết tả thực, nhẹ nhàng nhưng sống động để diễn tả tâm lý nhân vật. “Mị đứng dậy sắn ít mỡ bỏ vào ống dầu cho sáng,…rồi lấy cái váy hoa…”. Trong một phút suy nghĩ cô đã muốn vượt khỏi cái địa ngục, vượt ra ngoài căn phòng tối tăm để đến với cuộc sống ngoài kia. Không khí nhộn nhịp, đêm tình đầy mong ước đáng ra Mị phải được hưởng, đã rất lâu, rất lâu Mị không được sống lại cảm giác ấy. Quả thực, ngòi bút của nhà văn đã luồn lách rất sâu vào tâm lý nhân vật của mình mới có thể lột tả cho bạn đọc thấy rõ được một tâm hồn đang trỗi dậy.

Trong lúc Mị muốn được giải thoát, chỉ là một đêm thôi, một đêm như bao người khác “người ta cũng có vợ có chồng, người ta cũng được đi chơi, đằng này Mị và A Sử không có lòng với nhau mà vẫn phải sống với nhau”. Một suy nghĩ đầy sự phản kháng đã hiện lên, tuy nhiên trong lúc ấy Mị đã bị A Sử chặn lại. Bằng bản tính thâm độc của con quan chúa đất, hắn trói Mị vào cột, thậm chí còn cuốn tóc mị một cách dã man khiến Mị không sao cử động được. Suy nghĩ đã bị vùi tắt, nước mắt chảy xuống trong đau đớn cả về thể xác lẫn tâm hồn, phải nói gì đây khi cuộc sống là vậy, khi bọn tàn ác vẫn còn thì bao số phận, bao con người vẫn bị vùi lấp vào đau khổ. Mị chỉ còn nghe thấy tiếng ngựa đạp vách, ánh sáng đèn dầu bị A Sử dập tắt, còn lại chỉ một khe hở le lói yếu ớt. Hiện thực hiện lên đầy trần trụi, tố cáo sự tàn ác của bọn thống trị thời đó nhưng cũng đầy thương cảm đối với nhân vật Mị.

Cũng trong đêm tình mùa xuân ấy, nhân vật A Phủ xuất hiện. Một anh chàng khỏe mạnh, dũng mãnh đã dám đánh A Sử khi hắn phá vỡ cuộc vui của đám trai làng tìm bạn. Vì đánh A Sử nên số phận của A Phủ cũng bị rơi vào nhà Thống Lý Pá Tra, cái địa ngục trần gian đã đẩy con người ta đến cái bế tắc cùng cực dường như chỉ nghĩ đến cái chết mới có thể giải thoát. Sau đêm đánh A Sử trọng thương, A Phủ bị người nhà Thống Lý phạt rất nặng bị đánh bầm dập nhưng anh không kêu lên một tiếng, thể hiện một con người gan dạ, cứng cỏi vô cùng. A Phủ bị phạt vạ một trăm quan tiền, một trăm quan tiền chẵn. Vậy như là món nợ truyền kiếp này đến bao giờ mới hết “đời mày không trả được thì đời con mày…đời cháu mày phải trả…”. Vậy là A Phủ phải ở đợ, làm thuê không công cho nhà Thống Lý, nào là những công việc vất vả đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò chăn ngựa, quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò rừng. Thực sự không còn có cái gọi là công bằng, công lý ở cái xã hội ấy mà chỉ còn áp bức bóc lột. Cuộc sống của nhân dân trước cách mạng khổ đau đã hiện lên rất rõ qua hai nhân vật Mị và A Phủ.

Và một lần để lỡ hổ ăn thịt mất bò nhà Thống Lý, A Phủ lại bị phạt nặng, anh bị người nhà Thống Lý trói vào chặt vào cột bằng sợi mây siết chặt. Trong đêm mùa đông giá rét A Phủ bị đánh đập dã man, bị bỏ đói mấy ngày liền, thực sự không còn tính người, không còn coi tính mạng con người bằng súc vật nữa. Đêm mùa đông ấy, nếu như không có sự giải thoát thì A Phủ sẽ chết, chắc chắn là phải chết.

Mùa đông giá rét ở Hồng Ngài thật khiến con người ta sợ hãi, hai số phận gặp nhau Mị và A Phủ. Hai con người bị giam chặt, kìm hãm, bị áp đặt cuộc sống, mọi thứ của cuộc đời dần như vô nghĩa. Khi Mị bắt gặp ánh mắt của A Phủ, khi Mị nhìn ánh lửa và nghĩ đến cuộc sống của bản thân mình, một ánh sáng trong tâm trí như đã hiện lên. Tâm trạng nhân vật Mi như có một chuyển biến đầy rõ nét hơn nữa, Mị đã quyết định cắt dây cứu A Phủ. Đây là kết quả tất yếu của một quá trình bị dồn nén, áp bức về tinh thần, đọa đày về thể xác, bây giờ đã đến lúc phải chấm dứt. Mị cắt dây trói cứu A Phủ đồng thời cũng là tự cắt đứt sợi dây vô hình đã trói chặt cô vào quãng đời tủi nhục. Hành động nhanh nhẹn, dứt khoát cứu một con người như mang lại chính sự sống cho Mị và rồi Mị và A Phủ đã cùng nhau trốn đi. Họ đã trốn đến Phiềng Sa sống một cuộc đời mới, mở ra hạnh phúc mới và tìm đến được với ánh sáng cách mạng.

Trong giá trị hiện thực của tác phẩm đã ẩn chứa giá trị nhân đạo sâu xa. Có căm thù giai cấp thống trị và xã hội bất công, tác giả mới lên tiếng tố cáo mạnh mẽ. Có thực sự cảm thương số phận đau khổ của con người, tác giả mới viết nên những trang văn gây xúc động mạnh mẽ như vậy.

Tính nhân đạo của tác phẩm trước hết thể hiện ở sự bênh vực và cảm thông sâu sắc với số phận của những con người bất hạnh như Mị và A Phủ. Ở khía cạnh này, Tô Hoài tỏ ra có sự am hiểu sâu sắc từ đời sống vật chất đến đời sống tâm lí của đồng bào các dân tộc miền núi Tây Bắc.

Thành công cơ bản của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là nghệ thuật xây dựng nhân vật, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Cả hai nhân vật Mị và A Phủ đều thể hiện một cách sống động và chân thực những nét riêng, nét lạ trong tính cách của người Mông nói riêng và đồng bào miền núi nói chung. Trên hết là một lối sống mộc mạc, hồn nhiên, phóng khoáng, tự do. Những phẩm chất này khiến người Mông có một sinh lực sống dồi dào khiến họ đủ sức mạnh để vượt qua bất cứ sự áp bức đè nén nào. Mị bề ngoài lặng lẽ, âm thầm, nhẫn nhục nhưng bên trong sôi nổi một khát vọng sống, khát vọng tự do và hạnh phúc. A Phủ táo bạo, gan góc mà chất phác, tự tin. Cả hai cùng là nạn nhân của bọn chúa đất, quan lại thống trị miền núi tàn bạo, độc ác. Trong con người họ tiềm ẩn sự phản kháng vô cùng mãnh liệt.

Ngòi bút diễn tả tâm lý nhân vật của nhà văn Tô Hoài chính là một độc đáo của tác phẩm, nhất là diễn tả tâm lý nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân để lại nhiều ám ảnh đối với bạn đọc. Sự thay đổi trong tâm lý nhân vật được diễn tả rõ nét cho thấy nhà văn là một người rất tinh tế, tài hoa, biết nhiều, hiểu nhiều và đầy cảm thông đối với cuộc sống của những người dân khổ cực.

Qua tác phẩm Vợ chồng A Phủ cho ta thấy cuộc sống đầy khổ cực của nhân dân ta trước cách mạng, tố cáo mạnh mẽ xã hội thời bấy giờ sự lộng quyền của bọn nhà giàu chúa đất ép con người ta đến bước đường cùng. Tác phẩm cũng đề cao giá trị con người, giá trị của sự đổi thay vùng lên phản kháng, người dân đã đến với cách mạng, tìm đến với tự do, hạnh phúc. Những trang văn cũng chính là tiếng nói làm nổi bật lên nét tài hoa của nhà văn Tô Hoài để tên tuổi ấy mãi đi vào lòng bạn đọc.

Chúc các bạn ôn thi văn THPT hiệu quả nhé!

 

Filed Under: Ngữ Văn; Tagged With: vợ chồng a phủ

Soạn bài hồn trương ba da hàng thịt – Văn 12

Tác giả Tùng Teng posted 06/03/2024

“Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt” của Lưu Quang Vũ là một vở kịch vừa quen thuộc vừa mới lạ đối với nhiều độc giả và khán giả. Câu chuyện kể về Trương Ba, một người đàn ông khỏe mạnh làm nghề hàng thịt, không may bị sét đánh chết. Nhưng vì không nỡ rời xa cõi trần, hồn Trương Ba đã nhập vào xác của Đế Thích, một anh hàng thịt khác vừa mới qua đời.

Việc nhập hồn vào xác Đế Thích đã khiến Trương Ba gặp phải nhiều tình huống trớ trêu và day dứt. Xác Đế Thích vốn yếu ớt, bệnh tật, khiến Trương Ba dù có khỏe mạnh đến đâu cũng không thể thoát khỏi cảnh ốm đau, bệnh tật. Hơn nữa, Đế Thích lại có một người vợ trẻ đẹp và một đứa con thơ, khiến Trương Ba không khỏi chạnh lòng khi nhớ về vợ con của mình.

Tình huống éo le trong “Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt” đã đặt nhân vật Trương Ba vào những lựa chọn khó khăn và day dứt. Anh phải lựa chọn giữa tình nghĩa với người vợ trẻ của Đế Thích và nỗi nhớ nhung về vợ con mình. Anh phải lựa chọn giữa việc tiếp tục sống trong thân xác yếu ớt, bệnh tật hay chấp nhận cái chết để giải thoát khỏi những đau đớn giày vò. Câu chuyện của Trương Ba không chỉ là một câu chuyện về cái chết và sự sống, mà còn là một câu chuyện về tình yêu, tình nghĩa và sự lựa chọn của con người trong những hoàn cảnh trớ trêu của cuộc sống…

Cùng tham khảo soạn bài nhé!

Soạn bài hồn trương ba da hàng thịt - Văn 12

Tìm hiểu chung tác phẩm Hồn trương ba da hàng thịt

Tác giả – Lưu Quang Vũ

– Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) và sinh ra ở Hạ Hòa, Phú Thọ, quê gốc ở Đà Nẵng, trong một gia đình  rất tri thức, cha là  một nhà viết kịch Lưu Quang Thuận đã  nên thiên hướng và  có năng khiếu  về nghệ thuật của ông  và Ông đã sớm được bộc lộ từ nhỏ.

– Lưu Quang Vũ  đã từng tham gia  vào quân đội thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Ông đã  bắt đầu sáng tác thơ từ khoảng giữa những năm sáu mươi của thế kỉ XX, đến những năm tám mươi thì  ông đã chuyển sang hẳn lĩnh vực sân khấu. Chỉ trong bảy, tám năm mà  ông đã sáng tác  ra khoảng mươi lăm kịch bản và hầu hết được dàn dựng… Lưu Quang Vũ không chỉ đã trở thành một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường của những năm tám mươi của thế kỉ XX mà còn được coi là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật của Việt Nam hiện đại. Năm 1988, ông  đã mất đột ngột vì tai nạn giao thông. Ông   cũng đã được nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

-Tác phẩm chính như: Sống mãi tuổi 17, Nếu anh không đốt lửa, Lời thề thứ 9, Khoảnh khắc và vô tận, tôi và chúng ta,…

Thông tin về tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt 

Hồn Trương Ba, da hàng thịt  được viết  vào năm 1981 nhưng đến năm 1984 thì mới được ra mắt công chúng. là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ, đã công diễn được nhiều lần trên sân khấu trong nước và ngoài nước. Từ một cốt truyện dân gian mà Lưu Quang Vũ đã xây dựng thành một vở kịch nói rất  là  hiện đại và đã đặt ra  được nhiều vấn đề mới mẻ và có ý nghĩa với triết lí và nhân văn sâu sắc.

Văn bản được trích ở phần lớn cảnh VII và đoạn kết của vở kịch.

Nội dung kiến thức

1. Qua đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt với các hàm ý mà tác giả muốn gửi gắm

– Những nỗi dằn vặt và  trăn trở của nhân vật hồn Trương Ba về cuộc sống ngang trái của mình.

– Những lí lẽ cám dỗ của nhân vật  về xác hàng thịt.

– Hình ảnh của Trương Ba và xác hàng thịt  đã được tác giả muốn để lại một ý nghĩa giáo dục  rất sâu sắc không nên hoán đổi thể xác và trú ngụ vào những nơi không phải là của mình.

– Ý nghĩa triết lí của vở kịch như: Sự thống nhất giữa tư tưởng với hình thức. Đây là một trong những ý nghĩa triết lí có tính khái quát cao và đã  bao trùm  được nhiều mặt của đời sống xã hội.

2. Nguyên nhân đã khiến cho người thân của Trương Ba và cả Trương Ba đã rơi vào bất ổn và phải chịu nhiều đau khổ

– Trương Ba (nhân hậu, trong sạch, ngay thẳng, có nhiều thú vui tao nhã, trí tuệ và chơi cờ…) nhưng phải trú nhờ thể xác của nhà hàng thịt (thô lỗ, phũ phàng và  dung tục). Ngay cả hồn Trương Ba đã ý thức được điều đó và ngày càng cảm thấy xa lạ hơn với mọi người và  thấy chán chính mình.

–  Mọi người xung quanh thì  không một  ai thừa nhận ông cả. Người thân trong gia đình và từ đứa cháu nhỏ đến người vợ, đứa con dâu đều cảm thấy xa lạ với cái thể xác thô tục ấy. Họ xa lánh, sợ hãi và  thậm chí ghét bỏ một cách ghê tởm . Trương Ba  đã rơi vào hụt hẫng và rất  cô đơn. Gia đình anh  nhà hàng thịt thì càng không thể thích nghi được với những lời nói, việc làm và với  tư tưởng của một hồn Trương Ba xa lạ dù thể xác tồn tại trước mặt họ là chồng và là cha  của họ.

– Nhân vật hồn Trương Ba đã  rơi vào sự trớ trêu của hoàn cảnh. Ông đã bị mọi người  xung quanh xa lánh với sự tồn tại của ông vì thế cũng đã trở nên vô nghĩa, nặng nề và bức bối.

3. Quan niệm của Đế Thích

– Khuyên Trương Ba để chấp nhận vì thế giới vốn không toàn vẹn: “Dưới đất, trên trời đều thế cả”.

– Quan niệm của Trương Ba: không chấp nhận cái cảnh phải sống bên trong một đằng bên ngoài một nẻo và  muốn được là mình “toàn vẹn”.

→ Sự khác nhau trong mối quan niệm về sự sống giữa Trương Ba và Đế Thích:

– Đế Thích có cái nhìn quan liêu và hời hợt.

– Trương Ba cần  một cuộc sống có ý nghĩa, phải đúng là mình và đã  hòa hợp toàn vẹn giữa linh hồn và thể xác.

* Trương Ba đã trách Đế Thích, người đem lại cho mình sự sống: “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông còn chẳng cần biết” là hoàn toàn đúng bởi việc Trương Ba sống đã dựa vào xác hàng thịt đã khiến hồn ông trở thành nô lệ cho thân xác.

* Màn đối thoại giữa Hồn Trương Ba và Đế Thích nói lên ý nghĩa:

– Con người là một thể thống nhấ với hồn và với xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục và  tội lỗi.

– Sống thực sự cho ra con người không thể dễ dàng và đơn giản. Khi sống nhờ và sống chắp vá thì không được là mình thì cuộc sống trở nên vô nghĩa.

4. Trương Ba không chấp nhận với cách sống giả tạo

Khi Trương Ba đã kiên quyết đòi trả xác cho hàng thịt, Đế Thích đã định cho hồn Trương Ba nhập vào thằng cu Tị nhưng Trương Ba lại từ chối bởi ông cho rằng một tâm hồn già cỗi trú ngụ mà ở trong thể xác của một cậu bé con. Ông không chấp nhận với cách sống giả tạo với cuộc sống mà “khổ hơn là cái chết”.

Quyết định của hồn Trương Ba  đã thể hiện  được một tính cách quyết đoán và mạnh mẽ và cả một lòng nhân hậu, giàu tình yêu thương.

5. Thông điệp của tác phẩm

Kết thúc vở kịch với nhân vật hồn Trương Ba đã chấp nhận cái chết, dù là cái chết rất oan ức. Đoạn kết của đoạn trích đã làm bừng sáng nhân cách của Trương Ba và là những thông điệp về sự chiến thắng của cái thiện và cái đẹp và sự sống đích thực.

→ Gửi gắm thông điệp: Một trong những điều quý giá nhất của mỗi con  người là đều được sống là mình và  sống trọn vẹn với những giá trị mà mình có và theo đuổi. Cuộc sống thật sự có ý nghĩa khi con người đã được sống trong sự hài hòa giữa thể xác và linh hồn, con người phải biết đấu tranh để hoàn thiện nhân cách và  vươn tới giá trị cao quý.

Luyện tập thêm

“Giả định Đế Thích đã cho Trương Ba được sống trong xác hàng thịt hoặc hồn Trương Ba đã nhập vào cu Tị và Trương Ba đồng ý”

Cuộc sống của Trương Ba sẽ vô cùng rắc rối hơn và khổ sở:

– Nếu nhập vào xác hàng thịt thì Trương Ba chỉ biết làm mấy công việc của anh nhà hàng thịt, còn người nhà Trương Ba thì cảm thấy xa lạ  hơn với thân xác kì lạ, thô lỗ, vụng về của anh hàng thịt.

– Nếu nhập vào xác cu Tị: Trương Ba còn đau khổ hơn vì Trương Ba từng là một người đã từng trải và  chín chắn hơn, già dặn không thể nào có sự hòa hợp với thân xác của một đứa trẻ, ông không thể làm được những việc mà ông không muốn làm.

THAM KHẢO THÊM BÀI VIẾT

CHI TIẾT: Tóm tắt vở kịch hồn trương ba da hàng thịt

CHI TIẾT: Các bài soạn văn 12

CHI TIẾT: Soạn văn 12 bài chiếc thuyền ngoài xa

Filed Under: Ngữ Văn; Tagged With: Hồn Trương Ba da hàng thịt

Mở bài Hồn Trương Ba da hàng thịt hay & ấn tượng

Tác giả Tùng Teng posted 03/03/2024

Tác phẩm kịch nổi tiếng của nhà văn Lưu Quang Vũ là Hồn Trương ba da hàng thịt, cùng Chúng tôi học cách viết mở bài Hồn trương ba da hàng thịt để có bài phân tích thu hút và đạt điểm cao nhé. 

Mở bài Hồn Trương Ba da hàng thịt

Mẫu mở bài gián tiếp Hồn trương ba da hàng thịt

Mở bài mẫu số 1

Trong lĩnh vực nghệ thuật sân khấu Việt Nam trước đây, không ai không biết đến Lưu Quang Vũ – một hiện tượng đặc biệt, nổi bật trong thế giới kịch những năm 80 của thế kỷ XX. Mặc dù ông có tài ở nhiều lĩnh vực như viết truyện ngắn, làm thơ, vẽ tranh… nhưng thành công lớn nhất của ông nằm trong việc soạn kịch. Trong số các vở kịch mà ông đã sáng tác, vở Hồn Trương Ba, da hàng thịt được xem là phần nổi bật và đáng chú ý nhất. Bằng cách xây dựng nội tâm độc đáo của nhân vật, đặc biệt là ở cảnh VII và đoạn cuối của vở kịch, Lưu Quang Vũ đã mang đến cho khán giả nhiều cảm xúc, suy tư và triết học sâu sắc thông qua nhân vật Trương Ba, người trong thân xác của anh hàng thịt.

Mở bài mẫu số 2

Lưu Quang Vũ là một nghệ sĩ đa năng, hoạt động rộng rãi trong các lĩnh vực nghệ thuật. Ông có khả năng viết truyện, thơ và am hiểu về hội họa. Tuy nhiên, tài năng của ông được thể hiện rõ nhất qua việc soạn kịch. Các vở kịch của Lưu Quang Vũ mang đậm triết lý nhân văn, sâu sắc, là minh chứng xuất sắc cho phong cách viết đặc biệt này. Đặc biệt, đoạn trích cảnh VII trong một vở kịch mà chúng ta học từ sách giáo khoa đã thể hiện rõ giá trị nhân văn, nhân sinh của toàn bộ tác phẩm khi xung đột giữa tâm hồn và thể xác diễn ra gay gắt, đưa câu chuyện lên đến cao trào.

Mở bài mẫu số 3

Lưu Quang Vũ là một tài năng đa nghệ, từ viết thơ, văn, đến hội họa… Nhưng đặc biệt, ông được xem là một trong những nhà viết kịch xuất sắc và tài ba nhất của văn học Việt Nam trong thập niên 80 của thế kỷ XX. Các vở kịch của ông đã khiến dư luận sôi sục và được khán giả đón nhận nồng nhiệt. Hầu hết các vở kịch do ông sáng tác đều được các đoàn nghệ thuật lớn trình diễn, trong đó có vở nổi tiếng “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Lưu Quang Vũ đã có nhiều ý tưởng sáng tạo, như việc tái hiện một vở hài kịch cổ thành một tác phẩm bi kịch triết học hiện đại bằng cách đổ rượu mới vào bình cũ. Thông qua những vở kịch này, ông để lại những giá trị nhân văn sâu sắc, gợi mở tư duy cho khán giả về cách nhìn nhận cuộc sống.

Mở bài mẫu số 4

Trong thập niên 1980, các vở kịch của Lưu Quang Vũ đã gây sốc trong cộng đồng và làm lay động sân khấu Việt Nam vào thời kỳ đổi mới. “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được coi là tác phẩm xuất sắc nhất của ông, sáng tác vào năm 1981 nhưng lại ra mắt khán giả vào năm 1984. Vở kịch này dựa trên một câu chuyện cổ tích cùng tên, tác giả đã đề cập đến một vấn đề xã hội nóng bỏng, thể hiện sâu sắc triết lý về cuộc sống. Sống tồn tại là quý giá, nhưng sống một cuộc sống ý nghĩa, hài hòa giữa tâm hồn và thể xác, mới thực sự đáng giá vạn lần.

Mở bài mẫu số 5

Những năm tám mươi của thế kỉ XX, Lưu Quang Vũ đã làm chấn động sân khấu kịch Việt Nam thời đổi mới với những vở kịch đặc sắc. Trong đó nổi bật nhất là vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” – tác phẩm đã làm lên tên tuổi của ông. Vở kịch được viết lên dựa theo cốt truyện của một truyện cổ tích cùng tên, qua đó, tác giả nêu lên một vấn đề cấp thiết của xã hội mang tính triết lí sâu sắc: con người ta sống phải có sự hòa hợp giữa thân xác và tâm hồn, không thể sống nhờ, sống gửi vào thân xác của người khác, như thế bi kịch sẽ xảy ra.

Mở bài Hồn trương ba da hàng thịt trực tiếp 

Mở bài mẫu số 1

Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ có bảy hồi, phần trích mà chúng ta học trong sách giáo khoa là hồi kết. Thông qua 2 bi kịch của Trương Ba, tác giả Lưu Quang Vũ đã mang đến cho người đọc, người xem thấy được vẻ đẹp tâm hồn của người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự giả tạo và dung tục, bảo vệ quyền được sống, một cuộc sống đích thực có ý nghĩa và khát vọng hoàn thiện nhân cách. Từ một cốt truyện dân gian cũ, Lưu Quang Vũ đã chuyển thể thành vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng, triết lý nhân sinh và nhân văn sâu sắc. Đặc biệt cuộc đối thoại nảy lửa giữa Trương Ba và Đế Thích, đã làm rõ khát vọng được sống là chính mình, sống một cuộc sống có ý nghĩa của Hồn Trương Ba. (Thay đổi linh hoạt câu từ để dẫn dắt vào nội dung đề bài yêu cầu)

Mở bài mẫu số 2

“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là một tác phẩm tiêu biểu nhất của Lưu Quang Vũ viết theo hướng khai thác cốt truyện dân gian và gửi gắm những suy ngẫm, triết lý nhân văn, nhân sinh về hạnh phúc con người, kết hợp phê phán một số lối sống tiêu cực trong xã hội thời bấy giờ. Tác phẩm gây lên tình huống kịch tính sau khi hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt dẫn tới “vụ tranh chấp chồng” của hai bà vợ phải đưa ra tòa xét xử, bà Trương Ba thắng kiện và được đưa chồng về. Đoạn trích kịch trong sách giáo khoa là đoạn kết của vở kịch. Với cách xây dựng tình huống truyện và cách giải quyết xung đột như vậy, Lưu Quang Vũ đã gửi gắm một triết lí nhân sinh sâu sắc về lẽ sống, lẽ làm người: được sống là một điều vô cùng đáng quý, nhưng không phải sống thế nào cũng được. Nếu sống vay mượn, sống chắp vá, sống thân tầm gửi, không có sự hài hòa giữa vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách và nhu cầu vật chất của thân xác thì con người chỉ gặp bi kịch mà thôi. Con người chỉ thực sự hạnh phúc, có ý nghĩa khi được sống đúng là chính mình, được sống tự nhiên trong một thể thống nhất. Đó chính là chủ đề tư tưởng chính của vở kịch này.

Mở bài Hồn trương ba da hàng thịt nâng cao 

Mở bài mẫu số 1

Sự sống đích thực, nhân cách cao đẹp hoàn thiện luôn là cái đích mà con người ta luôn muốn hướng đến dù là ở thời đại nào, trong hoàn cảnh nào. Từ thuở tấm bé, ta đã thường được nghe bà, mẹ ta ru hời những câu ca dao răn dạy về cách sống, về vẻ đẹp nhân cách. Khi lớn lên đi học, ta được truyền cảm hứng về những bài học triết lý nhân sinh trong xã hội. Song phải kể đến các tác phẩm kịch, thì những giá trị nhân văn, nhân sinh đẹp đẽ nhất mới được tái hiện và lưu diễn rộng rãi. Hồn “Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang được coi là hiện tượng của làng sân khấu kịch Việt Nam trong những năm 80 của thế kỉ XX. Bởi nó chạm tới những vấn đề nóng bỏng của cá nhân và xã hội được gửi gắm qua thông điệp nhân văn sâu sắc nói về sự sống, vẻ đẹp của con người. Qua việc xây dựng liên tiếp chuỗi bi kịch đau đớn của nhân vật Trương Ba, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn cao khiết, trong sạch của nhân vật: Một con người thánh thiện, nhân hậu, vị tha luôn khao khát vươn tới một sự sống tốt đẹp.

Mở bài mẫu số 2

Nghệ thuật sân khấu là loại hình nghệ thuật phổ biến, nó phát triển và có những giá trị đặc sắc cho đến tận ngày nay. Vì thế mà các nhà soạn kịch, viết kịch luôn tìm tòi , khám phá và sáng tạo để đưa vào tác phẩm những giá trị cốt lõi và ý nghĩa nhất. Tiêu biểu cho nhà viết kịch đặc sắc trong thời kỳ đổi mới phải nói tới Lưu Quang Vũ. Đầu những năm thế kỉ XX, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ với tác phẩm kịch xuất sắc “Hồn Trương Ba da hàng thịt” được coi là hiện tượng đặc biệt của loại hình nghệ thuật sân khấu. Với những giá trị triết lý nhân văn, nhân sinh sâu sắc, vở kịch không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn được công chiếu ở ngoài nước nhiều lần. Tác phẩm đã đề cập đến những vấn đề nóng bỏng đối với mỗi cá nhân và toàn xã hội lúc bấy giờ. Đó là khi con người ta bị chi phối bởi những yêu cầu bản năng thì đừng chỉ biết đổ lỗi cho thân xác, không nên an ủi mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn mà phải biết hoàn thiện vẻ đẹp nhân cách, bảo vệ những giá trị văn hóa của con người.

Mở bài mẫu số 3

Bi kịch là gì mà lại khiến cho con người ta đau khổ? Bi kịch là gì thế mà mỗi tác phẩm nghệ thuật đặc sắc đều cố gắng đặt nhân vật của mình vào nó để tôn lên những giá trị cao đẹp? Tôi xin trả lời rằng, bi kịch đó là một trạng thái tinh thần đau đớn của con người khi họ phải đứng trước nghịch cảnh trớ trêu, éo le mà không thể hóa giải được. Vì thế mà con người phải sống triền miên trong nỗi đau khổ và bế tắc. Số phận của nhân vật bi kịch thường được kết thúc bằng cái chết và sự diệt vong của những giá trị lớn lao. Lưu Quang Vũ với vai trò là nhà viết kịch xuất sắc nhất của mọi thời đại đã làm nên một “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” đầy những bi kịch đau đớn đó là bi kịch sống và bi kịch tinh thần. (Đề bài phân tích bi kịch của nhân vật Trương Ba)

Mở bài mẫu số 4

Trong cuộc đời của mỗi con người chúng ta, ai cũng luôn khao khát được là chính mình, được sống một cuộc sông có ý nghĩa, đó là một khao khát thiêng liêng và đáng trân trọng nhất. Có một ai đó đã từng nói rằng “Tại sao tôi phải sống cuộc đời của người khác và tại sao tôi lại để người khác sống cuộc đời của tôi, tôi muốn được là chính tôi, dù hạnh phúc hay khổ đau thì đó chính là điều mà tôi đã lựa chọn”. Có thể nói niềm khao khát được là chính mình được thể hiện trong rất nhiều tác phẩm nghệ thuật, đó chính là cái “tôi” cá nhân đầy cá tính mạnh mẽ. Một trong những tác phẩm thể hiện rõ nhất khao khát ấy đó chính là một vở kịch rất nổi tiếng được viết vào đầu những năm 80 của thế kỷ trước có tên là “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” do nhà soạn kịch tài ba Lưu Quang Vũ chắp bút. 

Dẫu biết mỗi tâm hồn sẽ có những cách tiếp cận, những lối viết khác nhau. Tuy nhiên từ những ý chung sẽ giúp phát triển cái riêng một cách mới mẻ, độc đáo phải không nào? Trên đây là một số mẫu  mở bài Hồn Trương Ba da hàng thịt đặc sắc nhất được chọn lọc để các bạn tham khảo. Hi vọng với những mở bài này có thể giúp cho các bạn có thêm những ý tưởng bay bổng một cách ấn tượng nhất nhé.

Mở bài Hồn trương ba da hàng thịt ngắn gọn

Mở bài mẫu số 1

“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của nhà soạn kịch Lưu Quang Vũ là một trong những vở kịch nổi tiếng nhất vào những năm tám mươi của thế kỷ XX. Tác phẩm nói lên lẽ sống của con người qua việc “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo” – con người khi không được sống là chính mình. Qua phân tích cuộc đối thoại nảy lửa, gay cấn giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt chúng ta sẽ thấy rõ được điều đó. (Đề bài phân tích cuộc đối thoại của hồn Trương Ba với xác hàng thịt)

Mở bài mẫu số 2

“Hồn Trương Ba da hàng thịt” là một trong những vở kịch nổi tiếng nhất làm lên tên tuổi của Lưu Quang Vũ. Vở kịch đã đặt ra nhiều vấn đề nóng bỏng của xã hội lúc bấy giờ – đó là thời điểm những năm tám mươi của thế kỉ XX. Lưu Quang Vũ đã khéo léo mượn lại một cốt truyện dân gian cũ để đan cài, lồng ghép vào đó những suy nghĩ, quan niệm, triết lí nhân văn, nhân sinh mới mẻ và sâu sắc.

Mở bài mẫu số 3

Trong sự nghiệp sáng tác kịch của Lưu Quang Vũ, vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông. Vở kịch được ông hiện đại hóa từ một cốt truyện dân gian cũ, qua hệ thống nhân vật Lưu Quang Vũ đã đặt ra nhiều vấn đề bức thiết, nóng bỏng của cuộc sống con người lúc bấy giờ, để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.

Mở bài mẫu số 4

Một triết học gia người Đức đã từng nói rằng: “Bạn phải trở về với những gì là của bạn”. Câu nói đó nói lên rằng con người ta cần phải sống là chính mình để trở thành một con người hoàn thiện nhất. Giọng văn ấy còn gợi cho ta nhớ đến một vở kịch nổi tiếng của nhà viết kịch Lưu Quang Vũ đó là vở “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, qua nhân vật Hồn Trương Ba cũng cất tiếng gọi, lời van xin thống khổ, tha thiết được sống là chính. “Không thể sống bên trong một thứ này, bên ngoài một thứ khác. Tôi muốn là tôi trọn vẹn ”. Chỉ với câu nói ấy thôi cũng đủ làm toát lên nỗi niềm, bi kịch đau đớn và niềm khát vọng chính đáng của nhân vật Hồn Trương Ba.

Mặc dù mỗi cá nhân sẽ có cách tiếp cận và phong cách viết riêng, nhưng những ý chung sẽ thúc đẩy sự phát triển cá nhân một cách mới lạ và độc đáo, phải không? Dưới đây là một số ví dụ về cách viết mở bài văn Hồn Trương Ba da hàng thịt tinh túy nhất được chọn lọc để bạn tham khảo. Hy vọng rằng những cách bắt đầu này sẽ giúp bạn có thêm những ý tưởng sáng tạo và ấn tượng nhất.

Filed Under: Ngữ Văn; Tagged With: Hồn Trương Ba da hàng thịt

  • « Go to Previous Page
  • Page 1
  • Interim pages omitted …
  • Page 84
  • Page 85
  • Page 86
  • Page 87
  • Page 88
  • Interim pages omitted …
  • Page 97
  • Go to Next Page »

Primary Sidebar

Tìm kiếm

Danh mục nổi bật

  • Nghị luận xã hội
  • Nghị luận văn học
  • Soạn Văn 12
    • Kết nối tri thức tập 1
    • Kết nối tri thức tập 2
    • Chân trời sáng tạo tập 1
    • Chân trời sáng tạo tập 2
    • Cánh Diều tập 1
    • Cánh Diều tập 2

FOLLOW CHÚNG TÔI

    FANPAGE:
    Facebook.com/onthidgnlcom

  • GROUP FACEBOOK
  • 2K7 Ôn thi ĐGNL, ĐGTD, Đại học 2025 - Chia sẻ Kho tài liệu miễn phí
  • KÊNH YOUTUBE:


Bài viết mới nhất

  • Soạn Văn 12 sách mới đầy đủ và chi tiết các tác phẩm
  • Chuyên_Đề_Nguyên_Hàm_Và_Tích_Phân_Ôn_Thi_Tốt_Nghiệp_THPT_2025_Giải_Chi_Tiết
  • Chuyên_Đề_Một_Số_Yếu_Tố_Về_Xác_Suất_Ôn_Thi_Tốt_Nghiệp_THPT_2025_Giải_Chi_Tiết
  • Chuyên_Đề_Hình_Học_Không_Gian_Lớp_11_Ôn_Thi_Tốt_Nghiệp_Giải_Chi_Tiết
  • Soạn bài Thực hành đọc Cẩn thận hão Văn 12 Kết nối tri thức tập 1

Copyright © 2025 · Onthidgnl.com
Sitemap | Giới thiệu | Liên hệ | Chính sản bảo mật | Điều khoản và điều kiện