Mục lục
Tóm tắt bài thơ tiếng hát con tàu (mẫu 1)
Chế Lan Viên tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan. Quê ở Csm An, Cam Lộ. Quảng trị. Từ năm 1927 , gia đình ông chuyển vào An Nhơn, Bình Định. Sau khi đã tốt nghiệp Trung Học, Chế Lan Viên đã đi dạy học ở trường tư và làm báo ở Sài Gòn với các tỉnh ở miền Trung. Ông đã tham gia vào cuộc cách mạng tháng Tám ở Quy Nhơn. Trong kháng chiến chống thực dân pháp, ông hoạt động văn nghệ và báo trí ở Liên Khu IV và ở chiến trường Bình Trị Thiên. Sau năm 1945 thì ông về Hà Nội để tiếp tục hoạt động về văn học với nhiều năm như vậy ông tham gia lãnh đạo Hội Nhà văn Việt Nam. Sau năm 1975, ông vào sống ở Thành Phố HHồ Chí Minh, tiếp sau đó thì hoạt động văn học. Thơ Ông là sức mạnh trí tuệ được biểu hiện trong khuynh hướng suy tưởng và triết lý. Chất suy tưởng triết lý đã mang vẻ đẹp trí tuệ và nhiều sự đa dạng và phong phú của hình ảnh thơ được sáng tạo bởi một ngòi bút thông minh, tài hoa. Khai thác triệt để các tương quan đối lập. Và nổi bật nhất là nâng lực sáng tạo hình ảnh phong phú, độc đáo mang nhiều ý nghĩa biểu tượng.
Tóm tắt bài thơ tiếng hát con tàu (mẫu 2)
Với những trăn trở và tìm tòi không ngừng thì đời thơ Chế Lan Viên đã trải qua nhiều chặng và chặng nào cũng đạt được những thành tựu đáng kể. Sau cách mạng tháng Tám, Chế Lan Viên đã được xem là một trong số những nhà thơ trữ tình chính trị tiêu biểu với phong cách rất độc đáo. Nếu Tố Hữu nói chính trị bằng giọng tâm tình ngọt ngào thì Chế LanViên cũng nói bằng giọng chính luận mang màu sắc triết luận. Những sự kiện thời sự đã diễn ra hàng ngày và các vấn đề chính trị được ông hình tượng hoá rất khéo léo qua các hình ảnh thơ mới lạ. Chế Lan Viên đã đi từ những kỉ niệm đã kháng chiến và khái quát thành những chân lí của tình yêu đất nước thật là diệu kì; từ chân lí cô đúc đi tìm nơi sâu lắng nhất thì cái nền tảng và cơ sở của tình yêu thiêng liêng với tổ quốc với tình yêu lứa đôi, sau đó đã khẳng định được sự hài hoà giữa tình yêu đôi lứa nồng nàn với tình quân dân đằm thắm.
Tóm tắt bài thơ tiếng hát con tàu (mẫu 3)
“ Tiếng hát con tàu ” đã được nhà thơ Chế Lan Viên sáng tác vào năm 1960 và nằm trong tập thơ “Ánh sáng và phù sa”. Thời điểm đó, miền Bắc vừa trải qua thời kỳ khôi phục kinh tế và sau những năm tháng trong kháng chiến gian khổ, bước vào kế hoạch năm năm với lần thứ nhất. Hoàn cảnh đặc biệt ấy đã khơi dậy được trong nhà thơ nguồn cảm xúc sáng tạo nghệ thuật, thôi thúc ông cho ra đời với tác phẩm xuất sắc trong sự nghiệp thi ca cách mạng của mình. Tiếng hát con tàu không chỉ đơn thuần là lời kêu gọi mà còn động viên thanh niên lên đường để xây dựng Tổ quốc, mà còn thể hiện được tình cảm sâu nặng của tác giả với nhân dân, với quê hương đất nước.
Tóm tắt tiếng hát con tàu chế lan viên (mẫu 4)
“ Tiếng hát con tàu ” là tiếng hát rất mê say của nhà thơ Chế Lan Viên về lòng khát khao được lên đường để xây dựng quê hương, đất nước. Bằng các thủ pháp nghệ thuật tả thực như là ẩn dụ, so sánh…nhà thơ đã sáng tạo thành công được nhiều hình ảnh đặc sắc, gợi được những rung động của người đọc trước những tình cảm gắn bó với nhân dân, với đất nước của nhà thơ. Từ đó, mỗi con người sẽ có nhận thức riêng cho mình một con đường để hòa mình vào với cuộc sống mới, được sống trong những cảm xúc chân thành như của chính nhà thơ vậy.
Tóm tắt tiếng hát con tàu chế lan viên (mẫu 5)
Được mệnh danh là người nghệ sĩ trong thơ ca mang phong cách triết luận tâm tình, Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh năm 1920 và mất vào năm 1989. Có thể nói rằng tài năng của ông được bộc lộ rất sớm, tiêu biểu là qua tập thơ đầu tiên mang tên Điêu tàn được xuất bản vào năm 1937. Chế Lan Viên là nhà thơ đã mang với cái tên tuổi trong phong trào thơ Mới. Chẳng thế mà Hoài Thanh trong thi nhân Việt Nam đã từng viết về ông “ta đắm say với Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên…” đã thể hiện được phong cách thơ trữ tình mang đạm cái tôi rất riêng của thi sĩ họ Chế. Phong cách sáng tác của ông trước Cách mạng tháng Tám mang chủ nghĩa cá nhân rất sâu sắc. Trong những vần thơ trong giai đoạn này, chúng ta đã bắt gặp một tâm hồn đơn độc, muốn trốn tránh ẩn náu cuộc sống “Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh và Một vì sao trơ trọi cuối trời xa…” Tuy nhiên, từ sau Cách mạng tháng Tám, phong cách của thơ của thi nhân cũng hoàn toàn thay đổi theo hướng rất mới lạ. Đó là đi từ cái riêng đến với cái chung, từ cá nhân đến tập thể, đi vào cõi lòng trơ trụi đến thế giới rộng mở của đất nước nhân dân. Đi cùng với sự hóa thân kì diệu của Tổ quốc và sau Cách mạng thì những vần thơ của ông cũng đã gần như bị lột xác để mang tiếng nói chung của đất nước, và cũng chính nhà thơ đã hóa thân để đổi mới chính mình trong công cuộc hòa nhập.
THAM KHẢO THÊM BÀI VIẾT
CHI TIẾT: Mở bài phân tích tiếng hát con tàu
CHI TIẾT: Soạn bài tiếng hát con tàu